Vận dụng sáng tạo phương thuốc “xuyên bối tỳ bà cao” trong trị ho

Vận dụng sáng tạo phương thuốc “xuyên bối tỳ bà cao” trong trị ho
TP - Xuyên bối tỳ bà cao là phương thuốc đông y dùng trị ho từ cách đây 300 năm. Phương thuốc có xuất xứ từ thời nhà Thanh, Trung Hoa, gắn liền với một truyền thuyết vẫn được dân gian truyền tụng. Đó là câu chuyện cảm động về một vị quan thanh liêm, chính trực và hết mực hiếu thảo.

> Rau hẹ, cá bống trị ho cho trẻ

Trong một lần phụ mẫu mắc chứng bệnh lạ, ho dòng dã ngày này qua tháng khác, biết bao danh y và bài thuốc quý đã được chưng dụng mà bệnh tình không hề thuyên giảm. May thay, trong lúc tuyệt vọng, vị quan đó đã gặp được một thần y, người vô cùng cảm kích trước sự đức độ và lòng hiếu thảo của quan huyện.

Thần y xin phép được đem tài sức của mình ra cứu giúp. Ngài đã dùng phương thuốc “Xuyên bối tỳ bà”, từng dùng để cứu chữa nhiều người, với 2 vị thuốc chủ đạo là Xuyên bối mẫu và Tỳ bà diệp kết hợp cùng nhiều thảo mộc khác, sắc thành cao cho bà lão uống.

Quả nhiên không lâu, bà lão khỏi bệnh, ho dứt, tinh thần phấn trấn trở lại. Cảm phục trước tài năng và tấm lòng của thần y, đồng thời hết mực coi trọng phương thuốc quý, bà lão bày tỏ tâm nguyện được truyền bá rộng rãi phương thuốc này tới nhân dân khắp vùng.

Phương thuốc quý “Xuyên bối tỳ bà cao” sau đó được nhân dân khắp nơi trọng dụng, trở thành bảo bối của nhiều gia đình. Trải qua hơn 300 năm lịch sử được con người qua các thế hệ kế thừa và truyền tụng, Xuyên bối tỳ bà cao được xem là tinh hoa của y học cổ truyền phương Đông, không chỉ chứa đựng những tri thức uyên bác và sâu sắc của y học cổ truyền, mà còn chứng minh tính khoa học thông qua trải nghiệm và ứng dụng thực tiễn của con người qua hàng trăm năm.

Xuyên bối tỳ bà cao phối hợp nhiều vị dược liệu theo nguyên lý trị bệnh của y học cổ truyền. Trong đó chứa cả thuốc bệnh và thuốc bổ. Trong thuốc bệnh lại bao gồm thuốc trị ho hàn và ho nhiệt.

Thuốc trị ho nhiệt thì có tính hàn như xuyên bối mẫu, qua lâu nhân, tỳ bà diệp, giúp thanh phế (mát phế), tán kết, hóa đàm, chỉ khái (giảm ho). Thuốc trị ho hàn gồm các vị có tính ấm như trần bì, cát cánh, bán hạ, có tác dụng ôn phế, hóa đàm, chỉ khái.

Thuốc bổ, cũng gồm có thuốc ôn bổ và thanh bổ. Thuốc bổ ấm như viễn chí, ngũ vị tử, ôn bổ phế khí, giúp cơ thể thích ứng được với thay đổi của môi trường bên ngoài, đặc biệt là khí lạnh.

Thuốc bổ mát như sa sâm giúp bổ phế âm. Vì vậy, phương thuốc có thể sử dụng cho nhiều đối tượng, phạm vi rộng như trị ho hàn, ho nhiệt, ho cấp tính, ho mãn tính…

Cùng với sự giao lưu văn hóa, đặc biệt trong lĩnh vực y học cổ truyền, phương thuốc Xuyên bối tỳ bà cao được du nhập vào Việt Nam. Trên cơ sở phương thuốc này, nhiều thầy thuốc đông y Việt Nam đã gia giảm các vị dược liệu sao cho phù hợp với đặc điểm sinh học, con người, thổ nhưỡng, khí hậu bản địa.

Bên cạnh dạng thuốc sắc truyền thống, dần dần, với sự phát triển của công nghệ bào chế, nhiều dạng thuốc ho tiện dụng như siro, viên ngậm…trên nền tảng phương thuốc Xuyên bối tỳ bà cao đã được sản xuất để phục vụ nhu cầu trị bệnh của con người.

Dựa trên nền tảng lí luận của y học cổ truyền trong việc phối hợp các vị thuốc, kết hợp vận dụng sáng tạo kinh nghiệm dân gian trong trị bệnh, Xuyên bối tỳ bà cao được gia thêm 2 vị thuốc Ô mai, mật ong, đã giúp công hiệu của phương thuốc được tăng lên nhiều phần.

Ô mai được sử dụng từ xa xưa trong dân gian để trị các chứng ho, khô cổ, ngứa họng và một số chứng bệnh nhẹ ở đường hô hấp. Trong ô mai có muối, giúp sát trùng niêm mạc hầu họng. Thịt quả ô mai chứa nhiều acid hữu cơ, vitamin C.

Theo đông y, ô mai kích thích sinh tân dịch, liễm phế, nghĩa là giữ cho môi trường ở đường hô hấp được tốt hơn, trong trường hợp phế âm hư, ho khan. Hải Thượng Lãn Ông quy ô mai vào bổ kim. Trong ngũ hành, phế thuộc kim.

Vì vậy, ô mai sử dụng trong các chứng bệnh ở phế là đúng theo phương pháp biện chứng luận trị của đông y. Ô mai thường được phối hợp với cam thảo khi chế biến thành món ăn hay làm thuốc.

Cam thảo có tính ôn (tức ấm), giúp làm ấm đường hô hấp. Trong cam thảo, có những hợp chất hữu cơ như saponin, flavonoid, vừa có tác dụng long đờm, vừa có tác dụng chống viêm.

Mật ong được cả loài người sử dụng làm thuốc từ ngàn năm nay, trong đó có dùng để chữa ho. Trong sách của Hải Thượng y tông tâm lĩnh, có dùng mật ong vào nhiều phương thuốc chữa ho, có cả phương thuốc dùng để chữa ho lao, gọi là Cam lộ thần cao.

Mật ong có tính kháng khuẩn, ức chế được các vi khuẩn như Streptococus, Staphylococcus. Mật ong có tác dụng bồi bổ. Trong mật ong có đường, vitamin, enzym tiêu hóa, protit. Mật ong có tác dụng làm dịu, làm se, chóng lành niêm mạc hầu họng khi bị tổn thương…

Cả ô mai và mật ong đều là 2 vị thuốc ôn bổ (bổ ấm), khi phối hợp với các thảo mộc trong phương Xuyên bối tỳ bà cao, thì thuận theo nguyên lý trị bệnh của đông y, là vừa bổ, lại vừa tả. Lấy tính bổ để trị cái gốc của bệnh.

Vì thế Xuyên bối tỳ bà cao gia giảm ô mai, mật ong phát huy đồng thời cả 3 công năng Bổ phế, trừ ho, hóa đàm. Điều trị hiệu quả cả ho cấp tính và ho mãn tính, ho hàn và ho nhiệt, ho khan và ho có đờm, đặc biệt ho dai dẳng lâu ngày, ho tái đi tái lạị…

Công thức phối hợp ô mai, mật ong và phương thuốc Xuyên bối tỳ bà cao có trong sản phẩm thuốc ho Bảo Thanh (DP Hoa Linh). Do được nghiên cứu cẩn trọng cả về công thức và phương pháp bào chế, thuốc ho Bảo Thanh đảm bảo việc giữ nguyên hoạt tính dược liệu.

Qua đó, đảm bảo công năng, tác dụng của bài thuốc theo nguyên lý y học cổ truyền. Thuốc ho Bảo Thanh được người tiêu dùng bình chọn là sản phẩm tin dùng trong dòng sản phẩm thuốc ho đông được và đã được trao tặng giải thưởng Tự hào thương hiệu Việt.

Theo Báo giấy
MỚI - NÓNG