Truy tìm nguyên nhân tình trạng trẻ hóa bệnh nhân tim mạch ở Việt Nam

Bệnh tim mạch, nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trên toàn cầu – đang có xu hướng trẻ hóa nhanh tại Việt Nam, với số người mắc và tử vong gia tăng đáng báo động. 

Các chuyên gia cho rằng, xu hướng trẻ hóa của bệnh lý này phản ánh rõ sự thay đổi trong lối sống, chế độ ăn uống và áp lực xã hội ngày càng tăng.

Can thiệp tim mạch tại Viện Tim mạch.

PGS.TS Phạm Mạnh Hùng, Phó Chủ tịch Hội Tim mạch Việt Nam cho biết tăng huyết áp là yếu tố nguy cơ quan trọng nhất dẫn đến các bệnh lý tim mạch. Nếu năm 2000 chỉ có khoảng 10-15% người trưởng thành mắc tăng huyết áp thì nay con số này đã tăng lên 25-30%. Đáng lo ngại, khoảng 20% người dưới 40 tuổi đã mắc bệnh, nhưng chưa đến một nửa trong số đó được kiểm soát huyết áp ổn định. Việc người bệnh tự ý ngừng thuốc khi thấy huyết áp tạm hạ khiến tình trạng tái phát nặng hơn, gây biến chứng tim mạch, đột quỵ hoặc đột tử.

Theo GS Hùng, khoảng 90% các trường hợp đột tử bắt nguồn từ bệnh lý tim mạch như nhồi máu cơ tim, bệnh mạch vành, rối loạn nhịp tim, phì đại cơ tim hoặc bệnh tim bẩm sinh. Các rối loạn chuyển hóa như tăng huyết áp, tiểu đường, rối loạn mỡ máu nếu không được kiểm soát cũng góp phần làm gia tăng nguy cơ này. Bên cạnh đó, thói quen ăn nhiều chất béo, đồ chiên rán, uống rượu bia, hút thuốc lá, ít vận động, cùng với ô nhiễm môi trường và stress kéo dài đang khiến tỷ lệ mắc bệnh tim mạch tăng nhanh ở cả người trẻ.

GS.TS Phạm Mạnh Hùng trao đổi về các kỹ thuật chuyên môn tại Hội nghị ngày 18/10.

Tại Việt Nam, bệnh tim mạch và đột quỵ đang cướp đi sinh mạng của khoảng 200.000 người mỗi năm, chiếm gần 40% tổng số ca tử vong. Ước tính cứ 4 người trưởng thành thì có 1 người mắc bệnh tim mạch, trong đó nhiều trường hợp phát hiện ở độ tuổi rất trẻ.

Trước thực trạng đó Hội Tim mạch Việt Nam tổ chức Hội nghị khoa học Tim mạch toàn quốc 2025 mang chủ đề “Tim mạch học trong kỷ nguyên mới: Đột phá trong chẩn đoán và điều trị”, diễn ra trong hai ngày 18-19/10 tại Hà Nội.

Báo cáo tại hội nghị cho thấy, mỗi năm thế giới ghi nhận gần 19 triệu người tử vong vì bệnh tim mạch, chiếm hơn 30% tổng số ca tử vong, cao gấp 10 lần so với đỉnh dịch COVID-19 năm 2020. Đáng chú ý, hơn 75% số ca tử vong xảy ra tại các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình, với thiệt hại kinh tế toàn cầu ước tính hơn 1.000 tỉ USD mỗi năm.

Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khuyến cáo, chỉ cần kiểm soát tốt 5 yếu tố nguy cơ chính gồm tăng huyết áp, mỡ máu, đường huyết, hút thuốc lá và lười vận động, có thể ngăn ngừa tới 80% các ca tử vong do tim mạch. Các chuyên gia khuyến nghị người dân nên duy trì chế độ ăn lành mạnh, tăng cường vận động, tránh căng thẳng và khám sức khỏe định kỳ từ khi còn trẻ để phát hiện sớm, điều trị kịp thời.

Mặc dù năng lực chẩn đoán và điều trị tim mạch tại Việt Nam đã đạt nhiều tiến bộ, làm chủ được các kỹ thuật can thiệp hiện đại sánh ngang tầm khu vực, nhưng hệ thống y tế vẫn đối mặt nhiều thách thức. Hiện cả nước chỉ có chưa đến 2.000 bác sĩ chuyên khoa tim mạch, trong khi nhu cầu chăm sóc và điều trị ngày càng tăng. Chính sách y tế công cộng về phòng ngừa bệnh tim mạch như giảm muối, kiểm soát thuốc lá, khuyến khích hoạt động thể lực vẫn còn thiếu nhất quán và chưa được thực thi hiệu quả.

Các phiên thảo luận thu hút nhiều bác sĩ chuyên ngành tim mạch.

Hội nghị khoa học Tim mạch toàn quốc 2025 quy tụ gần 2.000 đại biểu gồm các giáo sư, chuyên gia, bác sĩ và nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, với 92 phiên khoa học và hơn 350 báo cáo chuyên đề. Sự kiện không chỉ là diễn đàn trao đổi chuyên môn, mà còn là lời cảnh báo mạnh mẽ về thực trạng trẻ hóa và bùng phát thầm lặng của bệnh tim mạch – căn bệnh đang cướp đi hàng trăm nghìn sinh mạng mỗi năm và thách thức mục tiêu phát triển sức khỏe bền vững của Việt Nam.

Nói về xu hướng điều trị bệnh tim mạch, GS Phạm Mạnh Hùng cho biết hiện nay y học đang hướng tới can thiệp ít xâm lấn, ứng dụng AI trong chẩn đoán và cá thể hóa phác đồ điều trị, giúp nâng cao hiệu quả và giảm rủi ro cho người bệnh. Nhờ các tiến bộ can thiệp hiện đại, hàng chục nghìn bệnh nhân tim mỗi năm tránh được mổ hở, rút ngắn thời gian hồi phục, giảm biến chứng và nâng cao chất lượng điều trị trong nước.