>>Tài nguyên nước, giàu hay nghèo?
Nhiều dòng sông cạn trơ đáy khiến cuộc sống của người dân khốn đốn . Ảnh: Hoàng Lam |
Phụ thuộc
Theo ông Des Cleary, Cố vấn Trưởng Dự án Đánh giá Ngành nước Việt Nam, "Việt Nam là quốc gia phụ thuộc nhiều vào nguồn nước của các sông quốc tế". Chỉ 40% lượng nước mặt ở nước ta là phát sinh trong nước.
Ngoài ra, cả sáu lưu vực sông lớn của Việt Nam đều phụ thuộc vào dòng chảy từ các nước khác. Lưu vực sông Đồng Nai (chiếm 14% tổng lượng nước của Việt Nam), lưu vực sông Hồng - Thái Bình (chiếm 16%), và hệ thống sông Tiền-sông Hậu (hạ lưu sông Mekong mà ta quen gọi là sông Cửu Long) đều bắt nguồn từ các sông quốc tế.
Lấy trường hợp sông Mekong làm ví dụ. Lưu vực sông Tiền-sông Hậu chiếm 57% (có ý kiến đưa ra tỷ lệ trên 60%) tổng lượng nước của Việt Nam, lớn nhất trong số các lưu vực sông ở Việt Nam. Thế nhưng, lưu lượng này lại chiếm tỷ lệ vô cùng nhỏ nếu so với tổng lưu lượng của con sông Mekong đa quốc gia dài 4.800 km.
Việt Nam - quốc gia có mật độ dân cư cao nhất vùng (236 người/km²) - lại được hưởng lưu lượng nước thấp nhất trong số 6 nước sông Mekong chảy qua , khoảng 8%.
Đối với con sông đa quốc gia, chỉ cần một thay đổi nhỏ trên dòng Mekong sẽ tác động lớn đến Việt Nam. Việc thành lập Ủy ban Sông Mekong (MRC) gồm bốn quốc gia thành viên là Lào, Campuchia, Thái Lan và Việt Nam, chỉ giải quyết được phần nào căng thẳng nhưng không đáng kể.
Chúng ta gặp khó khăn gấp bội khi cả hai quốc gia Trung Quốc, Myanmar (không thuộc MRC) ở thượng nguồn sông và đều có tham vọng xây dựng các đập lớn.
Theo TS Nguyễn Lan Châu, Phó Giám đốc Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Trung ương, tình trạng cạn kiệt nước sông Hồng mấy năm qua có nguyên nhân không nhỏ từ việc quốc gia láng giềng xây dựng gần nửa tá hồ đập thủy điện ở thượng lưu.
Trước thách thức ấy, các chuyên gia phải tính riêng lượng tài nguyên nước mặt sản sinh trên lãnh thổ nước ta. Kết quả giật mình, lượng nước mặt bình quân đầu người ở nước ta hiện chỉ khoảng 3.840 m3/người/năm, chứ không phải 10.000-11.000m3/người/năm như tính toán trước đó.
Theo tiêu chí của Hội Tài nguyên nước quốc tế (IWRA), nước ta thuộc các quốc gia thiếu nước (dưới 4.000m3/người/năm).
Bất tiện
Một thách thức khác là phân phối nước không đồng đều trên toàn lãnh thổ, gây ra bất lợi không nhỏ trong quá trình sử dụng nước. Trong khi 60% nguồn nước sông tập trung ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long (lưu vực sông Mekong), toàn bộ lãnh thổ còn lại chỉ chiếm 40% lượng nước nhưng lại là nơi sinh sống của gần 80% dân số cả nước và trên 90% khối lượng hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ.
Đặc biệt ở các địa phương vùng miền Đông Nam Bộ và lưu vực sông Đồng Nai - Sài Gòn, lượng nước bình quân đầu người chỉ đạt 2.900 m3/người/năm (con số này bao gồm cả lượng tài nguyên nước từ bên ngoài chảy vào Việt Nam).
Tài nguyên nước cũng phân bố không đều theo thời gian trong năm và giữa các năm. Lượng nước trung bình trong 4 - 5 tháng mùa mưa chiếm 75 - 85% lượng nước của cả năm, trong khi những tháng mùa khô (kéo dài đến 7- 8 tháng) chỉ có 15 - 25 %. Đấy là chưa kể lượng nước ở các lưu vực sông rất khác nhau, mùa khô nhiều nơi kéo dài tới 9 tháng.
Theo tiêu chuẩn quốc tế, trong mùa khô, nước ta hiện có 4/16 lưu vực sông thuộc nhóm căng thẳng cao với tỷ lệ khai thác nước bình quân trên 40%/năm.
Sông Nhuệ, sông Cầu ở miền Bắc; sông Thị Vải, Đồng Nai ở miền Nam đang dần trở thành những con sông chết; sông Hồng cạn kiệt, đe dọa nghiêm trọng chất lượng sống của cư dân ven sông; nhiều sông ở miền Trung - Nam Bộ có hiện tượng cạn kiệt gây sa mạc hóa. Điều tra của Dự án Hỗ trợ kỹ thuật đánh giá ngành nước Việt Nam |