Tiếng Việt khi được ghi âm bằng mẫu tự Latinh, người ta đã sử dụng cách ghi âm và phát âm theo kiểu tiếng Latinh, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, có lẽ thế, cho nên gần như viết thế nào đọc thế ấy. Hồi xưa mà ghi âm theo kiểu tiếng Anh, viết một đằng đọc một nẻo, chắc giờ đây người Việt mới đi học phải phát ốm.
Còn ở những nước bây giờ vẫn dùng mẫu tự không phải Latinh, như tiếng Trung, tiếng Nhật, tiếng Hàn, tiếng Nga, tiếng Hindi, tiếng Ba Tư, việc phiên âm rất nhiều khi không thể thống nhất, phiên âm của họ rất nhiều khi là viết một đằng đọc một nẻo.
Tôi nhiều lúc bần thần trước những phiên âm kiểu Khổng Tử mà lại thành Confucius, Tôn Tử thành Sun Tzu, Lỗ Tấn mà lại thành Lu Xun hoặc Lu Hsun, rồi Củng Lợi lại thành Gong Li, Trương Nghệ Mưu thành Zhang Yimou, Cao Hành Kiện thành Gao Xingjian, Mạc Ngôn thành Mo Yan.
Ở Hàn Quốc, những cái tên phiên âm của các văn nghệ sĩ, các chính khách, doanh nhân lâu nay đã thực sự làm rối cho người Việt. Người bị rối đã nôm na hóa như một cách chơi lại người gây rối: Chơi Xong Dông, Eo Chang Hy (y chang heo).
Ở Iran, tiếng Farsi (Ba Tư) khi phiên theo mẫu tự Latinh cũng gây bối rối không kém: phát âm là Kôm, có thể được phiên thành Qom, Ghom, Kom. Kazvin có thể được phiên thành Qazvin, Ghazvin. Phụ âm đầu có thể phát âm giữa G và K và Q. Có lần đi qua một huyện miền đông bắc thôi, cứ cách dăm ba cây số lại gặp một cái biển chỉ đường vào huyện. Kuchan, mà lúc thì Quchan, lúc thì Koochan, Kuchan, Qochaan… Xã nào thích phiên thế nào thì nó là như thế.
Trên tiểu lục địa Ấn Độ mới thật là hoang mang. Hàng trăm ngôn ngữ, đến mức chính phủ phải công nhận hai mươi hai ngôn ngữ chính (main languages, thống kê năm 2013). Hindi là tiếng mẹ đẻ của hơn 500 triệu dân, được coi là ngôn ngữ dân tộc (national language), nhưng chủ yếu ở bắc Ấn. Tôi đi về nam Ấn, hỏi chuyện bằng tiếng Hindi, người ta hiểu, nhưng nhất định không đáp lại bằng tiếng Hindi. Họ chỉ trả lời bằng tiếng Anh. Họ có tâm lý sợ ngôn ngữ và văn hóa bắc Ấn sẽ áp đặt lên văn hóa nam Ấn. Tiếng Anh được công nhận là ngôn ngữ chính thức trong văn phòng công sở (official language) và được sử dụng ở khắp đất nước.
Dễ hiểu bất cứ ngôn ngữ nào của Ấn Độ mà phiên ra chữ Latinh đều có dăm bảy đường. Những khái niệm của Ấn Độ được sử dụng nhiều trong tiếng Anh và các ngôn ngữ phương Tây chẳng hạn. Dharma (chân lý, pháp, bổn phận, trật tự…) là cách phiên kiểu tiếng Anh. Người Anh - Mỹ đều đọc là Đác-ma, đến mức người Ấn Độ khi nghe thấy thế cũng sửa theo, cũng nói là Đác-ma, để cho người nước ngoài dễ hiểu. Thực ra, nó phải được phát âm đúng là Thơ-râm (ba phụ âm thờ-rờ-mờ đặt cạnh nhau, mà không có nguyên âm chèn giữ). Không rõ ai là người đầu tiên phiên âm chữ này. Phiên âm thành chữ Dh thực ra được đọc hơi giống chữ Th tiếng Việt, chứ không bỏ chữ H đi để thành Đ.
Cũng thế là chữ Karma (hành động, nghiệp, luật nhân quả…), phiên ra như thế thì người Anh - Mỹ đọc là Kác-ma. Nhưng đúng ra phải phát âm là Kơ-râm.
Họ của đại thi hào Rabindranath Tagore chẳng hạn. Vùng Bengal có một dòng họ chúa đất danh tiếng là Thakur. Tagore là do một ông thực dân Anh nào đó lần đầu tiên phiên âm cái họ Thakur sang tiếng Anh. Người ta khai họ của mình là Thakur, ông người Anh nghe thành Tagore. Tôi là Thakur. Hiểu rồi, tôi sẽ ghi tên ông vào danh sách: Tagore. Phải đọc là Thakur nhé. Rồi, tôi đã ghi: Tagore.
Tên chào đời của người sáng lập ra Phật giáo được người Anh - Mỹ phiên thành Siddhartha rồi đọc thành Xi-đạt-tha, người Việt theo âm Hán Việt đọc thành Tất Đạt Đa. Đúng ra cái tên ấy phải được đọc theo tiếng Hindi là Xít-thơ-rất. Còn phiên âm từ tiếng Sanskrit và Pali là Siddhattha, đọc là Xít-thất-tha.
Tên của thân mẫu Đức Phật, Maya, phiên thế thì Anh - Mỹ vẫn đọc khá đúng là May-a. Nhưng người Việt hình như dựa theo âm Hán Việt, cứ đọc là hoàng hậu Ma-za.
Chữ Buddha hoặc Boddha (người Giác Ngộ, chỉ Đức Phật) đúng ra chỉ có một âm: Bút (gần như âm Bụt trong tiếng Việt). Người phiên âm ngại rằng người ta không đọc chữ Th ở cuối, cho nên điền thêm chữ A vào đó. Buddha. Người Anh - Mỹ cứ thế mà phát âm thành Bu-đa. Cũng như họ Gautama, không phát âm chữ A ở cuối, đọc đúng theo tiếng âm Sanskrit và Pali là Go-tâm.
Chữ Nirvana (phát âm: Nir-voan), người Việt đọc tương đối đúng từ âm Hán Việt là Niết bàn. Chữ này trong tiếng Pali là Nibbana (Níp-ban). Người đầu tiên phiên âm các ngôn ngữ Ấn theo mẫu tự Latinh hình như đã không yên tâm, đã sợ rằng người ta không phát âm rõ phụ âm cuối của từ, cho nên điền thêm vào chữ A ở cuối cùng. Nirvana, Nibbana. Chữ A theo cách ấy chỉ muốn lưu ý người ta nhớ đọc rõ phụ âm N ở cuối. Chính xác ra, người Ấn không phát âm chữ A này. Những từ vừa dẫn là ví dụ. Rất nhiều từ không thể dẫn hết ra đây, đều có thể là những ví dụ.
Tôi từng đọc bài của một số học giả Phật giáo, một số trí thức trong giáo hội ở ta, tranh luận về sự sai khác của những danh từ Phật giáo. Các vị và các thầy chỉ tranh luận trên ngôn từ phiên âm Latinh mà khó có cơ hội đối chiếu với ngôn ngữ gốc. Thành ra có những điều đơn giản mà cứ bị lý giải đi quá xa, và khó ai hiểu ai cho được.