Nhà cải cách Kim Ngọc - cha đẻ khoán 10

Nhà cải cách Kim Ngọc - cha đẻ khoán 10
TP - Kim Ngọc- tên thật là Kim Văn Nguộc, sinh 10 tháng 10 năm 1917, tại xã Bình Định, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc. Mất ngày 26 tháng 5 năm 1979.
Nhà cải cách Kim Ngọc - cha đẻ khoán 10 ảnh 1
Tượng đồng nhà cải cách Kim Ngọc

Tham gia Đảng Cộng sản Việt Nam 1939. Năm 1954, Phó Chính ủy Quân khu Việt Bắc. Năm 1958, Bí thư tỉnh uỷ Vĩnh Phúc. Từ năm 1968 đến 1978, Bí Thư tỉnh Vĩnh Phú. Kim Ngọc được coi là cha đẻ của khoán hộ  mà người ta quen gọi là “khoán 10”, và đổi mới trong nông nghiệp ở Việt Nam.

1. Thời ăn bo bo

Năm 1980, rằm tháng Giêng, tôi, anh lính binh nhì viết văn phong trào của Trung tâm huấn luyện chiến sĩ mới - Sư đoàn 411, nằm khoèo nơi trạm khách dưới chân tháp cảnh giới của người Pháp sót lại trên đồi Ga Vĩnh Yên.

Những cơn đói quằn quại ẩn trong mỗi nơ ron thần kinh, mỗi tế bào tuổi 20 khát thèm tinh bột và protein, cấu xé rùng rùng từ đầu tới chân. Tiêu chuẩn lính chiến đấu 24 kg lương thực, nhưng bữa ăn đại táo bày ra trên chiếc vung xoong quân dụng chỉ là những cục bo bo rã rời hăng mùi cứt mọt (thứ mà ở Đông Âu người ta cũng không dám cho gia súc ăn) và rúm rau muống luộc ố vàng như gốc rạ.

Gió trung du đồi sỏi khan lạnh lùa qua kẽ nứa thưa đan, tôi ngắm cánh đồng chưa kịp cấy lúa lõng bõng nước, mấp mô luống cày. Đám nông phu còm cõi, uể oải níu vai chiếc bừa đeo bám đít trâu bò gầy mõ bương đi dật dờ trong cơn mê ngủ.

Sát hàng rào kẽm gai, vạt ruộng rau muống váng phèn ám đỏ như ngấm a-xít, lơ phơ màu hoa trắng tím. Bà già trùm áo tơi lá và đứa cháu trai áo sợi quân dụng, nhưng quần lửng đùi chừa ra đôi chân như ống tre còi. Bà và cháu khua liềm làm cỏ rau muống. Bà và cháu cùng mót những cọng rau muống trụi lá, cứng dai như tay tre gai đồi sỏi. Bà và cháu trịnh trọng bỏ từng cọng rau vào chiếc rổ thưa méo miệng…

Bỗng tôi nhận được lệnh tháp tùng hai sĩ quan: Thiếu tá Nguyễn Ngọc Chiển - Trưởng Ban tuyên huấn và trung tá Phạm Quế Dương- Chủ nhiệm chính trị Sư đoàn ra bên ngoài doanh trại.

Cho đến bây giờ, tôi cũng chẳng hiểu tại sao hai sĩ quan trải qua hai cuộc kháng chiến đó, giỏi tiếng Pháp, thích ô-pê-ra, chơi vi-ô-lông, rèn luyện bóng bàn lại chiếu cố đến tôi. Quân phục mới nức, hai viên sĩ quan quân hàm quân hiệu sáng chói khoác va-rơi màu cỏ, bước nhanh ra khỏi tầng hầm trại lính cũ, nghiêm trang, trịnh trọng và trầm buồn. Tôi giập gót, giơ tay lên đầu, đáng lẽ nói: Chào các thủ trưởng ạ, thì tôi lại cháu chào hai bác ạ. Thiếu tá Nguyễn Ngọc Chiển cau mày.  

- Cậu định làm nông dân đến bao giờ nữa đây. Gần quá tuổi quân rồi.

Trung tá Phạm Quế Dương mải nghĩ gì đó nhưng tâm vẫn dính vào vụ việc. Ông phẩy tay.

- Chậc, nước Việt ta thì có làm vua 13 đời thì cắt gân gót vẫn còn máu nông dân. Có lẽ tại chúng ta sắp đi thắp hương cho anh Kim Ngọc - một đảng viên của những đảng viên - một nông dân của những nông dân nên linh ứng chăng.

Thiếu tá Nguyễn Ngọc Chiển nhìn cấp trên đắn đo.

- Có gọi xe không anh ? Tôi sợ anh sẽ lạnh…

- Đi thăm Kim Ngọc mà đi ô tô được sao. Kim Ngọc từng xắn quần lội ruộng lầy mùa đông thăm lúa, thăm ngô quanh năm. Ta cuốc bộ. Sĩ quan bộ đội Việt thì khác gì Chủ nhiệm HTX nông nghiệp.

Tắt qua đại đội vận tải đã là Xí nghiệp nung vôi liền kề ga Vĩnh Yên. Khói than. Bụi vôi. Bụi than. Bụi từ người lính, bụi người dân tứ xứ đứng, ngồi dồn ứ hai bên đường ke thành màn sương xám tê tái lơ lửng nhấn chìm mọi vật vào âm u.

Bộ đội quân phục nhàu nhò, súng đạn lấm lem. Nông dân thì vàng ệch, bao tải, quang sọt, đòn sóc, thừng chão quấn ngang lưng. Sắn tươi, sắn khô, su hào, bắp cải, cá mắm, măng khô, chè tươi, cắp nách, bưng bê, giấu giếm đâu đó. Mùi thối rữa. Mùi tanh ngắt.

Phòng thuế, công an thi thoảng lại thổi còi choe choé đuổi bắt. Tiếng chân chạy thục mạng. Hơi thở hồng hộc. Vấp, ngã. Xin xỏ. Van lạy. Thề thốt. Đầu tàu già cỗi, oằn oại kéo theo những toa hàng han rỉ…

Ngôi nhà lè tè nhưng vẫn có cảm giác chênh vênh bởi sự đơn độc của nó. Tường trát thiếu vôi, thiếu xi nổi cát. Ngói lợp khập khiễng, lệch xô. Đống sạn cát, gạch vỡ, ngói thủng được chủ nhân tận dụng để chờ xây dựng tiếp chỗ nào đó, xếp gọn gàng phía sau nhà. Xung quanh là nước đầm Vạc đục ngầu và nghĩa địa nhấp nhô.

Con chó gié từ đâu xộc ra oẳng lên rủa ngân nga, sầu muộn.

Hai vị sĩ quan chỉnh đốn quân phục, trước khi bước qua cánh cổng khép hờ. Ven bờ rào, căng dây thép gai rỉ, ngang thân cọc tre, dăm cây xoan, dăm cây mít mới độ bén đất ấm rễ. Hàng chè để hái lá tươi vươn cao, nhưng còn mảnh mướt lả ngọn. Vườn táo lai Thiện Phiến bắt đầu trổ búp mới.

Người đàn bà trắng xanh, tầm ngoại ngũ tuần, khăn len kẻ trùm đầu, kính râm, áo len dài tay màu mận, quần lụa đen óng, đôi dép nhựa xanh ngọc. Hai cánh tay đặt trước bụng, người đàn bà từ tốn cất giọng trầm, và ấm. Nhưng sao tôi vẫn cảm được sự xa cách, hờ hững thấp thoáng nỗi buồn không thể cởi gỡ. Bà Lê Thị Liên, người bạn đời của Bí thư Kim Ngọc.

- Các ông đến thăm nhà ạ. Xin mời các ông vào.

Tiếng dép lạch xạch lướt đi chầm chậm.

Bà đi ra từ cửa ngách, nhưng lại vòng ra trước rẻo sân lát gạch, xanh rêu, có cửa gian khách. Hai cánh cửa sơn xanh, khẽ một cái đẩy tay, hai cánh cửa sơn xanh đã lật úp vào hai bên tường. Mùi hương trầm ào ra. Một bàn thờ đơn sơ. Mâm ngũ quả. Bát hương, dày đặc chân nhang. Những que hương cháy hết uốn cong cong ôm lấy bát hương y như những bông lúa cháy đen ôm gốc rạ sau vụ hỏa hoạn.

Bức chân dung Kim Ngọc trịnh trọng trong bộ vest. Tóc rẽ ngôi lệch cổ điển. Khuôn mặt chữ điền, mắt sáng, hồn hậu. Đâu đó ẩn trong khoé miệng nụ cười hơi diễu cợt nhưng viên mãn.

Kim Ngọc đang chào một ai đó. Kim Ngọc đang khuyến khích một ai đó. Kim Ngọc đang chờ đợi một ai đó. Rõ ràng người trong ảnh đang rất tự tin và chẳng hề lo nghĩ bất cứ điều gì. Có vẻ như ông đã chụp ảnh trước khi đi dự hội nghị hay là chuẩn bị bước lên máy bay. Bay cao.

Tôi có cảm giác nghi ngờ về những thông tin ông xuất thân từ nông dân, am hiểu nông dân như là hiểu những vết sước trên mỗi ngón tay mình. Trông ông cứ như là cán bộ đối ngoại chuyên nghiệp.

Cởi áo khoác, hai sĩ quan nhìn quanh tìm chỗ treo áo. Tôi nhanh nhảu định đỡ áo, thì người đàn bà đã vội đón trước tôi, móc lên chiếc móc áo gắn trên tường ngoài hiên. Tôi nghĩ thầm, đó là chiếc móc áo những ngày trước bà Lê Thị Liên vẫn thường treo móc áo cho chồng. Trung tá Phạm Quế Dương nói:

- Thưa chị Kim Ngọc. Tôi quen anh nhà. Từ hồi anh làm Cục trưởng dân quân tự vệ. Còn anh Chiển vốn là chiến sĩ cũ của anh ấy. Năm ngoái anh mất, tôi ở xa. Hôm nay nhân ngày rằm, và cũng là dịp tôi được điều về nhận nhiệm vụ ở gần đây, hai chúng tôi xin chị, cho phép chúng tôi được thắp cho anh Kim Ngọc nén hương. Những mong linh hồn anh phù hộ độ trì cho đất nước. Phù hộ độ trì cho người nông dân cơm no ấm áo. Mong anh siêu thoát.

Đặt đồ cúng lên mặt bàn thờ đơn sơ. Hai viên sĩ quan dàn ngang, rập gót giơ tay chào kiểu quân sự. Tôi đứng sau nên lúng túng giây lát mới có thể lóng ngóng làm theo. Bà Lê Thị Liên bất ngờ ngẹn ngào, chắp tay đáp lễ.

Tôi lặng quan sát. Nhiều ảnh đen trắng trong khung kính. Mấy tấm bằng khen, giấy khen, huân, huy chương. Gắn dọc hai bên bức tường lồi lõm, của gian khách chật hẹp. Trong nhà chỉ có bộ bàn ghế kiểu Minh triện, đơn giản, trang nhã làm bằng gỗ gụ là trau chuốt. Nước vối nóng hổi rót liền trong ấm giỏ. Đĩa kẹo chanh Hải Châu đã lọt gió, thuốc lá Tam Đảo trịnh trọng mời khách. Bà Liên nhìn sang tôi:

- Gày xanh như thế này thì đi giữ chốt làm sao. Ăn đi con…Tuổi này thì bữa cứ phải bảy bát cơm trắng, niêu cá kho, nửa rổ xề rau muống thì khoẻ như ông voi hết…

Hai thủ trưởng của tôi lảng cái nhìn đi đâu đó.

Câu chuyện rời rạc, khó ăn nhập. Toàn chuyện gạo, lúa, bo bo, thời tiết, sức khoẻ họ hàng đôi bên.  Họ cứ muốn nói to một điều ấm ức nào đấy mà không tiện. Không thể kết thúc ngay câu chuyện. Nhưng để kéo dài câu chuyện thì lại không biết bám víu vào đâu.

Trong ánh mắt ba người từng trải qua hai cuộc chiến gần suốt cuộc đời, tôi thấy bao nhiêu là sự ngậm ngùi, cam chịu mà sẻ chia thông cảm. Họ vẫn còn giữ được niềm tin vững chắc vào những chân lý thuộc về lẽ công bằng. Tin vào sự thiêng gọi là tình đồng chí.

Người đàn bà nhìn lên di ảnh chồng, tĩnh lặng.

- Ông nhà cháu đã bảo với tôi rằng, ông như cây lúa trổ bông cho hạt rồi. Chỉ còn rạ với rơm. Rạ thì cày ải úp xuống cho đất ruộng thêm tơi nhuần. Rơm thì phơi khô dự trữ cho trâu bò tăng sức cày kéo mùa vụ.

Thiếu tá Nguyễn Ngọc Chiển ái ngại.

- Vĩnh Yên còn mênh mông ruộng đất. Sao anh chị không chọn điểm nào bằng phẳng, gần đường, gần chợ sinh hoạt cho tiện sinh hoạt. Đây tuy cao, nhưng là chỗ lò chum vại cũ, xung quanh hãy còn mồ mả, lối vào lầy thụt…Già cả rồi mà anh chị lại chọn chỗ  chông gai  để ở…

Bà Lê Thị Liên cười hồn hậu.

- Ông Kim Ngọc bảo ruộng đất rồi sẽ quí lắm. Không phải vô cớ ông cha nói tấc đất tấc vàng. Nếu thích lấy chỗ bằng phẳng đông vui thì phải xén vào ruộng đất canh tác. Ông ấy thích có vườn rộng. Mơ sẽ có một vườn táo sum suê. Muốn tự mình thực hiện khoán quản cho mình ngay trên mảnh đất mình khai hoang vỡ rậm…

Dường như hồn Kim Ngọc đã trở về. Nụ cười bỗng rạng trên gương mặt héo khô của cô sơn nữ xứ Tuyên thuở nào. Hào hứng bà bước ra hiên chỉ tay ra mấy phía vườn.

- Trước khi về hưu, ông Kim Ngọc đã nhờ mấy chú bên Xí nghiệp cơ khí  Vĩnh Yên rèn nào cuốc bàn, cuốc chim, nào xẻng. Mấy ông già Sán Dìu bạn thân thuở tá điền trong Thanh Lanh mang cho mấy khúc tre đực làm cán.

Tôi và ông ấy, tự khoán mỗi ngày cuốc 4 mét vuông vườn, nhặt sạch sỏi đá, mảnh sành, mảnh vại. Đứa cháu gái con thằng cả cũng theo ông bà ra vườn. Cháu nhỏ nhưng cũng biết gom nhặt mảnh sành, mảnh vại giúp ông giúp bà. Chẳng may, tay cháu bị cứa đứt, máu chảy tóa ngón tay. Cháu cứ giơ lên trời kêu khóc sợ hãi.

Ông Kim Ngọc nhà tôi lấy vạt áo lau sơ qua bùn đất trên ngón tay cháu rồi đưa vào miệng ngậm một lúc rồi mới băng bó. Lúc sau cháu gái hỏi tại sao ông lại ngậm ngón tay đầy những máu. Ông cháu bảo rằng: Cháu là máu thịt của ông bà. Máu của cháu cũng là máu của ông bà. Tay chảy máu ngậm vào miệng mãi cũng hết chảy cháu ạ…

Gió thổi bùng mái tóc pha sương thoát khỏi vành khăn len, xoà kín mặt người đàn bà. Hình như trong khóe mắt bà có nước mắt, nhưng trên môi bà sao tôi lại thấy nụ cười rạng niềm tin.

Câu chuyện tôi nghe bập bõm ngày xưa về khoán trong nông nghiệp và số phận người đảng viên Kim Ngọc, khai sinh ra nó là đề tài lúc rầm rì  lúc công khai có ở mỗi tổ đội sản xuất, ở mỗi quán nước chè, quán cà-phê trong suốt mấy chục năm, suốt từ Móng Cái đến mũi Cà Mau.

Và, cho đến thời điểm này, khi người nông dân toàn quốc, đã thừa lúa gạo xuất khẩu, họ dù không biết chữ, hay nghễng ngãng điếc lác còn biết Kim Ngọc là ai, thì dường như vẫn chưa có hồi kết câu chuyện về ông. Người ta đang hồi cố về Kim Ngọc với bao nhiêu niềm vui và nỗi buồn.

Người ruột thịt xung quanh tôi phần đông là nông dân. Nên ít nhiều tôi thấm hiểu thế nào là sự biết ơn của họ với nhà cải cách Kim Ngọc. Và, chính tự thân tôi cũng muốn một lần chính thức cảm ơn ông, với tư cách là một con người với một con người.

Ông đã làm vợi bớt đi bao nhiêu là gánh nặng trách nhiệm lo toan bất lực của tôi với người thân ở làng ở xóm, vì thóc nghĩa vụ vì chỉ tiêu lợn hơi. Và, những người thân cuả tôi ở xóm ở làng cũng không còn thắc thỏm thương các con cháu ở thành phố ăn gạo hẩm, ăn sắn khô mốc.

Ở mỗi bến tàu bến xe không còn cảnh bà mẹ nông dân còng lưng van xin quản lý thị trường khi mang theo một vài cân chè khô. Những chuyện thật mà ngỡ như không có. Không ngờ phải mất khoảng thời gian tính cho một thế hệ trưởng thành, tôi mới có lý do để trở lại ngôi nhà mà nhà cải cách nông nghiệp Kim Ngọc đã sống mấy tháng cuối đời.

Tham vọng lý giải hiện tượng Kim Ngọc với vô số câu hỏi và nhiệm vụ tự đặt ra, tôi những mong điều đó khiến mình yên lòng. Và, phần nào giúp bạn đọc phác họa chân dung một ngưỡi Cộng sản, dám xác quyết hy sinh sinh mạng chính trị đang thăng tiến vì bát cơm của mỗi người nông dân.

Một người dám nói ngược chân lý chính thống nuôi dưỡng ý chí thích công to, việc lớn và lòng tự hào của cả một quốc gia đang nồng nàn, phăng phăng cuộn chảy, phấn đấu cho thế giới đại đồng.

2. Mối tình đầu của cô sơn nữ

Nhà cải cách Kim Ngọc - cha đẻ khoán 10 ảnh 2
Nguyên Chủ tịch nước Trần Đức Lương thắp hương trước vong linh ông Kim Ngọc.

Với cô sơn nữ Lê Thị Liên sinh năm 1921 ở làng Sơn Nam ven sông Lô của huyện Sơn Dương tỉnh Tuyên Quang thì buổi chiều mùa xuân năm 1943 là buổi chiều định mệnh. Người thiếu nữ, tóc dài da trắng, tính tình bộc trực, thẳng thắn  con gái út của hào phú yêu nước Lê Khắc Cần từ ngoài bãi dâu ven sông Lô về nhà, treo cái cuốc lên đầu hồi tường bếp vừa buông quần, bỗng lúng túng.

Một người trai lạ đang đứng trước sân.

Người trai tầm thước, tóc ngắn, vẻ ưu tư, khắc khổ, quần áo nâu sờn mòn, đôi bàn chân trần nứt nẻ, choãi ngón bám chặt lấy mặt sân, tay khoanh trước ngực. Chiếc túi vải chàm đeo chéo hông. Đôi mắt sáng trầm. Anh ta khẽ gật đầu chào. Phong thái đàng hoàng tự chủ, cứ y như anh ta mới là chủ nhà, còn cô là khách. Người con trai ấy chính là Kim Ngọc.

Anh được Việt Minh phân công về vùng Sơn Nam, tổ chức và huấn luyện chính trị và quân sự cho  lực lượng cách mạng ở đây. Cô không dám đáp lễ mà chạy ngay vào bếp hỏi mẹ.

- Bầm ơi. Hình như lại có cán bộ Việt Minh đến ở nhà mình.

- Anh Nguộc sẽ ở nhà ta lâu lâu. Con nhớ cơm nước chu đáo. Việc gì cần hỏi thì hãy hỏi, không tò mò. Người lạ thắc mắc thì bảo anh họ ở dưới quê lên tậu trâu chọi…

Vừa lúc ấy, người thanh niên ngó vào khuôn cửa bếp chập chờn ánh lửa, lễ phép.

-Thưa bá, bá cho cháu mượn con dao rựa.

Người thanh niên lặng đến gốc mít cuối vườn, dựng đống củi cảnh, xắn tay làm việc. Củi dài thì anh chặt ngắn. Củi to thì anh chẻ ba, chẻ tư. Đống củi được xếp lại chẳng mấy chốc đã cao ngang thắt lưng. Cả hai mẹ con cô, bỗng  như bị thôi miên vì sự thuần thục công việc nhà nông của người thanh niên có tên Nguộc.

Từ bữa đấy, hôm nào không bận đi tuyên truyền, vận động, giác ngộ  bà con quanh xóm Sơn Nam tham gia Việt Minh, anh Nguộc lại theo chân cô Liên ra cánh bãi làm cỏ hái dâu. Vốn con nhà khá giả, cô Liên tham gia việc đồng áng như một  sự tuỳ hứng thích thì làm, không thích thì chơi.

Cô không quá chú tâm đến việc phải làm cỏ như thế nào, hái dâu như thế nào. Hái dâu cô vít cả ngọn dâu mà tuốt trơ trụi cả lá bánh tẻ lẫn búp non. Cô chạy ngang dọc bãi dâu, bắt cào cào châu chấu. Lá dâu tươi nhựa vương vãi kín lối đi.

Còn anh Nguộc giỏ sau lưng đầy lèn chặt tay, thì giỏ trước ngực cũng tới miệng. Dõi theo Liên chạy nhảy, Nguộc chau mày vẫy vẫy tay.

- Cô Liên lại đây tôi bảo tí.

- Có gì mà bảo tí mới lại bảo nhiều. Anh không thấy em đang bận đây à ?

- Bận cũng bỏ đấy.- Nguộc đã hơi sẵng giọng.- Cô không thể làm ăn tắc trách, cẩu thả  như thế này được…

Mồ hôi mướt tóc mai, Liên hớt hơ chạy đến.

- Đây cô mở to mắt mà xem. Cô hái dâu mà như bóp cổ cây dâu thế này thì làm sao nó sống được. Làm sao có đủ lá dâu cho tằm lứa sau đây. Tằm mà chết thì có khác gì cô đốt nhà mình không ? Trông đây này, người ta phải nắm phần thân cứng, ngắt từng chiếc lá bánh tẻ một, hiểu không ?

Liên ngỡ ngàng, nhưng vì ngượng nên cố cãi cùn:

- Ơ hay, cái nhà anh Nguộc này, đây là dâu nhà em, thì em muốn hái thế nào mà chẳng được. Ai khiến anh…

Nguộc nổi nóng, giậm chân.

- Phải, cô không khiến tôi. Tôi tự khiến tôi đấy. Nhưng đã là người nông dân làm ruộng chăn tằm thì phải biết thương biết xót con giống cây của chứ. Như thế thì mới hòng có miếng mà ăn chứ. Cô không biết là bố mẹ, anh em nhà cô đã vất vả bao nhiêu mới dư chút ít đồng tiền bát gạo đóng góp cho Việt Minh không. Của riêng mà cô thịa thế này, thì mai mốt cô làm ăn chung thì sẽ ra sao đây?

Dỗi anh Nguộc, Liên bỏ ra bờ sông Lô nghịch cát. Nhìn theo cô gái, thở dài, Nguộc cúi xuống nhặt hết những lá dâu rơi vãi vào sọt của mình. Ra vẻ thế, nhưng Lê Thị Liên đã thầm cảm mến người cán bộ Việt Minh, giỏi việc huấn luyện quân sự, giảng dạy chính thông thạo, sành sỏi việc nhà nông từ lúc nào không hay.

Mùa kén ươm tơ vàng năm ấy, cô đã khâu  bộ quần áo đũi và mua một đôi dép cao-su trắng tặng anh. Còn anh, chép lại những bài học chính trị trên những trang giấy trắng trong vở ghi của cô đầy đủ hơn. Biết cô ưa hình thức, anh Nguộc đã lựa khẩu súng mới nhất dành cho cô luyện tập.

Nương dâu bãi bồi ven sông Lô vào mùa cắm hom mới. Nguộc và Liên tranh thủ cuốc đất đêm trăng, bởi việc rèn luyện chiến thuật quân sự và học tập đã chật kín thời gian ban ngày. Nhưng hồi chiều, anh Nguộc nói nhỏ với cô, rằng, đêm nay có chuyện quan trọng muốn tâm sự. Nhưng trăng đã chếch đầu núi xa, mà anh Nguộc vẫn hì hụi cuốc, không đả động đến chuyện quan trọng kia.

Nhìn mồ hôi thẫm đen, ngực áo, cô linh cảm anh đang có điều khổ tâm, vướng bận. Đã mấy lần anh chống cuốc, ấp ứ định nói. Liên phải ý tứ nhắc khéo.

- Anh Nguộc, anh xem trăng đã gác núi kia kìa.

Người thanh niên bỗng run lên, bổ một nhát cuốc phập xuống lút cán. Xoa hai bàn tay lấm bụi phù sa mờ mờ bốc lên như khói trong ánh trăng.

- Tôi muốn hỏi đồng chí làm vợ. Đồng chí…Liên…Liên thấy thế nào?

Bên tai dường như vẫn còn vang tiếng mẹ cô, nhắc khéo, mươi hôm trước.

- Bầm thấy anh Nguộc là muốn thương yêu con thực lòng. Mà con thì chắc cũng mến nó rồi. Con gái mà lấy nhầm chồng thì …cuộc đời... Nhưng con lựa khéo mà hỏi han gia cảnh nhà người ta xem. Bầm nghe đâu, ở dưới quê anh Nguộc đã có vợ. Nhưng chị ta phản đối anh Nguộc đi theo Việt Minh. Con liệu bề mà dò  nguồn suối lạch sông xem thế nào…

Người thiếu nữ miền sơn cước ngõ ngàng. Người thanh niên Việt Minh dập dồn nói trong hơi thở.

- Thú thực, là tôi cũng đã một lần cưới hỏi, nhưng người ta không thể  cùng tôi trên con đường tôi đang đi. Nhà người ta đã trả lại lễ chạm hỏi cho nhà tôi rồi. Nhà tôi nghèo, không có bao lăm ruộng đất. Năm anh em trai đều xa làng từ nhỏ làm tá điền khắp các cửa nhà giàu.

Tôi sinh ra là để cho đất đai. Tôi yêu đất đai hơn bao giờ, tôi mê trồng lúa, trồng cây. Tôi đi theo Việt Minh là để kiếm mảnh đất cho mình. Khẩu hiệu của Việt Minh là người cày có ruộng. Mai này đất nước thoát khỏi ách Nhật- Tây, tôi sẽ về trang Sơn Nam ở rể cày ruộng chăn tằm cùng Liên…

Cô hỏi anh về cái họ Kim lạ lùng, thì anh tần ngần cho hay. Họ Kim nhà anh chính là họ Lê. Anh là con cháu nhóm những người trung thành với nhà Lê phản đối Tây Sơn nên đã phải rời kinh thành, mai danh ẩn tích…Lê Thị Liên ngỡ ngàng, thì ra anh Nguộc là người cùng họ. Nhưng họ Lê nhà cô thì lại từ vùng Lập Thạch chuyển cư lên Sơn Nam.

Lê Thị Liên học xong lớp quân chính 3 tháng do đồng chí Song Hào giảng dạy và phụ trách vừa lúc Cách mạng tháng 8 thành công. Trong niềm vui chung, Kim Ngọc và Lê Thị Liên đính hôn. Lễ cưới ở Tân Trào, chủ hôn là đồng chí Hoàng Quốc Việt. Gia đình nhà vợ giết bò, mổ lợn khao cả trang Sơn Nam vì cưới được rể hiền là cán bộ Việt Minh.

Kim Ngọc ở nhà vợ chừng vài tháng, nhưng do công tác đòi hỏi thi thoảng mới đập đểnh đáo qua nhà vợ được mươi tối. Người vợ trẻ Lê Thị Liên cũng bị cuốn theo vào công tác đoàn thể. Vợ chồng mới cưới, nhưng hóa ra vẫn không thể sống chung một nhà. Thi thoảng hai vợ chồng gặp nhau ở đâu đó trên đường công tác. Nhưng cả hai cũng chỉ biết nhìn ngắm nhau suông. Ngủ nhà cơ sở, mỗi người ở mỗi giường.

Thấy con dâu muộn cháu, mẹ chồng đã toan bắt Kim Ngọc lấy vợ khác để có người nối dõi tông đường. Chuyện đó rồi cũng đến tai tổ chức, từ đó bà Liên được bố trí bên cạnh Kim Ngọc vui cùng cái vui, buồn cùng cái buồn để giúp đỡ và chăm sóc người bạn đời, người đồng chí cho đến tận giây phút ông hấp hối trên giường bệnh.

Năm 1947 đứa con trai đầu lòng của họ chào đời trong kháng chiến, tên là Kim Sơn, người con trai thứ là Kim Nam. Tên hai người con trai, mang tên làng Sơn Nam, nơi chứng kiến tình yêu, và tình đồng chí gắn kết hai con người chung vào một số phận đặc biệt.

Từ một cô gái con phú nông giàu có, không phải  lo toan miếng cơm manh áo, bây giờ lấy Kim Ngọc, bà Lê Thi Liên bỗng nhiên phải lo toan chăm nuôi các con, kề vai bên người chồng đau yếu luôn luôn. Vậy mà bà đã vượt qua bao nhiêu cam go thử thách không lời ấy, để làm tròn bổn phận, người vợ thủy chung, người đồng chí tận tụy của Kim Ngọc. Đặng để ông không bận lòng, dồn toàn tâm huyết lo việc nước…

(Còn nữa)

MỚI - NÓNG