Người buông súng để cầm bút

Nhà văn Wayne Karlin
Nhà văn Wayne Karlin
TP - Trong số những người nước ngoài giúp đưa văn học Việt Nam ra thế giới, có lẽ giáo sư Wayne Karlin là một trong những cá nhân làm việc miệt mài, nỗ lực nhất, và đạt được những thành quả đáng ghi nhận nhất.

Ông đã tham gia biên tập và thúc đẩy xuất bản hàng loạt bản dịch tiểu thuyết, truyện ngắn và hồi ký của nhiều tác giả Việt Nam trong đó có Nguyễn Khải, Lê Minh Khuê, Hồ Anh Thái, Nguyễn Huy Thiệp, Ma Văn Kháng, Đoàn Lê, Dạ Ngân, Trần Văn Thủy… Những quyển sách này đã được những nhà xuất bản uy tín của Mỹ ấn hành và để lại ấn tượng trong lòng người đọc.

Một xạ thủ trên trực thăng

Sinh năm 1945 và vừa nghỉ hưu sau nhiều năm công tác ở vị trí giáo sư văn học và ngôn ngữ tại Đại học Nam Maryland, nhà văn Wayne Karlin có vẻ bề ngoài hiền lành và trầm tĩnh. Nhưng những người Việt đã từng đối diện với ông vào những năm 1966-1967 chắc hẳn sẽ rất hoảng sợ: ông là xạ thủ trực thăng, được quân đội Mỹ điều động tham chiến ở chiến trường Việt Nam.

Trò chuyện với tôi lần đầu vào năm 2017 khi tôi sang Mỹ giao lưu văn học, và nhiều lần gần đây qua thư điện tử,Wayne Karlin cho biết khi sang Việt Nam năm 1966, ông đã đem theo một niềm tin cháy bỏng rằng quân đội Mỹ thực hiện một nhiệm vụ cao cả ở Việt Nam: bảo vệ người Việt. Nơi ông đóng quân đầu tiên là một căn cứ trực thăng phía bắc Chu Lai. Tiểu đội của ông có nhiệm vụ bảo vệ một ngọn đồi, doanh trại phía sau và một số ngôi làng gần đó. Người lính trẻ Wayne Karlin hay vào một ngôi làng, trò chuyện với dân làng, rồi kết thân với một ông già, người từng tham gia kháng chiến chống Pháp và rất am hiểu về lịch sử Việt Nam. Ông già ấy đã truyền những kiến thức lịch sử đó cho Wayne và đối xử với Wayne ân cần như một người bạn. Nhưng khi chứng kiến ngôi làng nhỏ hiền hòa ấy bị lính Mỹ biến thành tiệm rượu và nhà chứa,Wayne cảm thấy bị phản bội vì nhận ra quân đội Mỹ đang gây ra những tổn hại đến cấu trúc xã hội và đất nước, con người Việt Nam.

Rồi khi đảm nhiệm một công việc khác: xạ thủ ở máy bay trực thăng, Wayne Karlin đóng quân ở núi Ngũ Hành Sơn (Đà Nẵng) và ở Quảng Trị. Trực thăng của ông có nhiệm vụ thả lính xuống những nơi chiến sự và sau đó đưa họ về nơi an toàn, trong đó có việc lấy xác lính và giải cứu những người lính bị thương. Những chuyến bay ấy ám ảnh Wayne cho đến tận bây giờ bởi vì trực thăng của ông thường gặp phải những làn đạn từ bên dưới và người xạ thủ buộc phải bắn trả. Nhưng Wayne không bao giờ bắn xuống một ngôi làng vì ông luôn nhớ gương mặt những người dân làng hiền hoà mà ông đã trò chuyện. Nhiều năm sau, khi gặp nhà văn Lê Minh Khuê và nghe bà kể đã từng làm thanh niên xung phong ở Quảng Trị, gần Khe Sanh, ông rùng mình nhớ lại mình đã từng bay qua khu vực đó. Một lần, ông đã được ra lệnh phải bắn xuống những lùm cây trong khu rừng. Ông tự hỏi điều gì sẽ xảy ra nếu nhà văn nổi tiếng của Việt Nam - Lê Minh Khuê - đã ẩn nấp trong những lùm cây ấy.

Wayne Karlin cho biết trong thời kỳ năm 1966-1967, vòng quay khốc liệt và nghiệt ngã của chiến tranh cứ cuốn thốc lấy ông, và ông chỉ có thể vùng vẫy và thoát ra khỏi nó trong chốc lát khi bỏ súng xuống và cầm lên một quyển sách. Thời trung học, ông đã mê đắm các tác phẩm khoa học viễn tưởng của Richard Matheson, Arthur C. Clark, và Robert Heinlein, để rồi giữa lúc bom rơi đạn xé, các tác phẩm của Ernest Hemingway, F. Scott Fitzgerald, Dos Passos, James Jones và Norman Mailer giúp ông hiểu về những gì đang xảy ra với ông và xung quanh ông.

Văn chương hàn gắn những nỗi đau

Nếu văn chương đã cứu rỗi tâm hồn Wayne Karlin trong chiến tranh thì chính văn chương là con thuyền đưa thể xác của ông nương náu đến một bờ bến mới. Sau khi giải ngũ, bị hội chứng chấn thương tâm lý hành hạ, nhưng Wayne Karlin không bị cuốn chìm bởi rượu hay ma túy như rất nhiều cựu binh khác. Ông nhận ra rằng mình phải học, và phải viết. Và người lính vừa buông súng ấy đã chọn ngành nghệ thuật và nhân văn, để rồi có bằng đại học vào năm 1970.

Wayne Karlin quyết định rằng mình cần phải phản đối cuộc chiến ở Việt Nam, nhưng không phải bằng bạo lực, mà bằng văn học. Ông đã đóng góp tác phẩm và đồng biên tập tuyển tập truyện ngắn đầu tiên của các cựu binh Mỹ từng tham chiến ở Việt Nam. Tuyển tập Free Fire Zone (Vùng oanh tạc tự do) ra đời năm 1973, vạch trần những đau thương mất mát chiến tranh đang gây ra cho cả người Việt và người Mỹ. Tất cả nhuận bút thu được của quyển sách được đóng góp cho các dự án vì mục đích hòa bình, trong đó có quỹ giúp xây dựng lại bệnh viện Bạch Mai ở Hà Nội - nơi bom Mỹ đã ném xuống năm 1972.

Nhận bằng thạc sĩ viết văn năm 1976, Wayne Karlin vừa sáng tác, vừa đảm nhiệm công tác giảng dạy, để rồi vào năm 1993, một sự kiện văn học đã thay đổi cuộc đời ông. Chương trình viết văn mùa hè, trung tâm William Joiner, đại học Massachusets cho ông cơ hội gặp gỡ với các nhà văn Việt nam đã từng đứng ở phía bên kia cuộc chiến, để rồi những tình bạn đặc biệt đơm hoa kết trái. Nhận ra sự diệu kỳ của văn chương trong việc hòa giải và hàn gắn những nỗi đau, những năm sau đó, Wayne Karlin miệt mài làm việc cùng nhà văn Lê Minh Khuê và nhà văn Trương Vũ để tập hợp bản thảo tuyển tập truyện ngắn mang tên The Other Side of Heaven (Phía bên kia góc trời). Dày 412 trang, đây là một quyển sách tiên phong, bởi nó bao gồm tiếng nói từ nhiều phía cuộc chiến: của những cựu binh quân đội miền bắc Việt Nam, những cựu binh quân đội Việt Nam Cộng hòa, và các cựu binh Mỹ. Tuyển tập được nhà xuất bản Curbstone Press ấn hành vào năm 1995, được độc giả đón nhận và được Hiệp hội các nhà phê bình văn học Mỹ bình chọn là một trong những cuốn hợp tuyển hay nhất năm. Tất cả nhuận bút từ việc phát hành quyển sách trong hai năm đầu tiên được dành tặng cho khoa sản bệnh viện Huế. Nhuận bút trong những năm sau được đóng góp cho Project Renew, một tổ chức rà phá bom mìn còn sót lại ở Quảng Trị.

Miệt mài vì “Những tiếng nói từ Việt Nam”

Từ năm 1995 đến năm 2010, trong vai trò chủ biên loạt sách “Những tiếng nói từ Việt Nam” của nhà xuất bản Curbstone, Wayne Karlin đã biên tập và thúc đẩy việc xuất bản nhiều tác phẩm có giá trị của nền văn học Việt Nam đương đại. Các quyển sách bao gồm: The Stars, The Earth, The River (Những ngôi sao, trái đất, dòng sông) - tuyển tập truyện ngắn của Lê Minh Khuê, 1997; Behind the Red Mist (Trong sương hồng hiện ra) - tuyển tập tiểu thuyết và truyện ngắn của Hồ Anh Thái, 1998; Against the Flood (Ngược dòng nước lũ) - tiểu thuyết của Ma Văn Kháng, 2000; Past Continuous (Thời gian của người) - tiểu thuyết của Nguyễn Khải, 2001; The Cemetery of Chua Village and Other Stories (Nghĩa địa xóm chùa và các truyện ngắn khác) - Đoàn Lê, 2005; Crossing the River (Sang sông) - tập truyện của Nguyễn Huy Thiệp, 2003; An Insignificant Family (Gia đình bé mọn) - tiểu thuyết của Dạ Ngân, 2009. Để giới thiệu đầy đủ hơn sự trù phú của văn học Việt Nam, ông và nhà văn Hồ Anh Thái đã đồng chủ biên tuyển tập Love After War: Contemporary Fiction from Viet Nam (Tình yêu sau chiến tranh) - tuyển tập truyện ngắn dày 600 trang của 45 tác giả Việt Nam, xuất bản năm 2003.

Làm việc miệt mài cho loạt sách “Những tiếng nói từ Việt Nam” của nhà xuất bản Curbstone, nhưng Wayne Karlin không nhận lương cho vị trí này.Khi tôi gặng hỏi, ông mới nói: “Việc nhà xuất bản Curbstonecho tôi được chọn và giới thiệu các tác phẩm Việt Nam là một niềm hạnh phúc lớn lao. Họ cho tôi quyền quyết định và rất chuyên nghiệp trong việc thiết kế, in ấn và phân phối sách”. Chắc hẳn Wayne Karlin hiểu có được sự hậu thuẫn của một nhà xuất bản Mỹ cho văn học Việt Nam là một điều hiếm hoi, và nguồn lực tài chính nên được dành cho việc in ấn và phát hành sách.

Nhưng rồi điều may mắn hiếm hoi ấy không tồn tại mãi mãi: NXB Curbstone đóng cửa. Loạt sách “Những tiếng nói từ Việt Nam” được chuyển sang nhà xuất bản Northwestern University Press, nơi đảm nhiệm việc lưu hành những cuốn đã in nhưng không xuất bản những tựa sách mới.

Dẫu gặp khó khăn, Wayne Karlin không bỏ cuộc. Ông tin vào tầm quan trọng của văn học Việt Nam và bắt tay hợp tác với các nhà xuất bản uy tín khác. Các tác phẩm văn học dịch do ông biên tập gần đây bao gồm Apocalypse Hotel (Cõi người rung chuông tận thế) - tiểu thuyết của Hồ Anh Thái, 2012, NXB Texas Tech University Press; The Women on the Island (Những người đàn bà trên đảo) - tiểu thuyết của Hồ Anh Thái, NXB University of Washington Press, 2010, và In Whose Eyes (Chuyện nghề của Thủy) - hồi ký của đạo diễn Trần Văn Thủy, NXB University of Massachusetts Press, 2016.

Theo lời kể của nhà văn Dạ Ngân, mùa hè 2006, sau khi tiểu thuyết Gia đình bé mọn được giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội, bà được các nhà văn Hồ Anh Thái và Lê Minh Khuê mời gặp nhà văn Wayne Karlin lúc đó đang ở Việt Nam. Trước đó, tuyển tập truyện ngắn Love After War (Tình yêu sau chiến tranh) do Wayne Karlin và Hồ Anh Thái chủ biên được xuất bản đình đám ở Mỹ đã mang lại niềm phấn khích lớn lao cho các nhà văn Việt Nam. Nhà văn Dạ Ngân chia sẻ: “Dấu ấn chiến binh ở Wayne Karlin khá đậm, đặc biệt qua đôi mắt rất đa cảm, tư lự. Chúng tôi hay nói đùa để không khí thân tình bớt trang nghiêm, trêu rằng ông đã từng ngồi trên trực thăng xả những tràng trung liên xuống Lê Minh Khuê và Dạ Ngân đang chạy lúp xúp dưới những tán cây vật vã bên dưới. Ông vừa cười vừa rưng rưng nước mắt. Ông hay ứa nước mắt khi nhắc chuyện súng ống, hành quân, bắn giết và những linh hồn mà ông có hẳn một cuốn sách về họ, cuốn Những linh hồn phiêu dạt. Vậy đó, gặp nhau, ngồi với nhau đi chơi với nhau hàng tuần, làm việc, chuyện trò, lên kế hoạch mới, phỏng vấn, ghi chép, nói cười nghiêng ngả…như chưa hề có giết chóc và hận thù. Nhưng chỉ cần chạm đến chuyện cây trung liên, cánh quạt trực thăng và những cuộc càn là ông ứa nước mắt. Sâu xa, những nhà văn Việt Nam như chúng tôi không khỏi ngạc nhiên và cảm động về “một tấm tình” của người từng là cựu thù, người trực tiếp cầm súng trong đội quân viễn chinh, người bên kia chiến tuyến và cũng là bên kia Thái Bình dương xa vời”.

Được gặp gỡ với những nhà văn như Dạ Ngân và Lê Minh Khuê,Wayne Karlin hiểu thêm về người phụ nữ trí thức Việt Nam - những người mà nếu ông đối đầu trong chiến tranh, không biết điều gì sẽ xảy ra bởi họ là người đứng ở bên kia chiến tuyến. Cảm thông với thân phận phụ nữ sau chiến tranh, ông đã viết lời giới thiệu ấm áp và chân tình cho bản dịch tập truyện Những ngôi sao, trái đất, dòng sông của Lê Minh Khuê và bản dịch tiểu thuyết Gia đình bé mọn của Dạ Ngân.

Không chỉ về Việt Nam để gặp gỡ các nhà văn Việt Nam và thực hiện những dự án dịch văn học đầy vất vả, Wayne Karlin còn truyền tình yêu dành cho dải đất hình chữ S cho các sinh viên Mỹ. Trong nhiều năm, ông đã đưa sinh viên của mình về Việt Nam để họ tìm hiểu văn hóa, lịch sử và con người Việt Nam. Ước ao sâu thẳm của ông là người Việt và người Mỹ xích lại gần nhau hơn. Ước ao đó cũng được thể hiện rõ nét trong nhiều quyển sách của ông về Việt Nam, bao gồm các tiểu thuyết Lost Armies (1988), Us (1993), Marble Mountain (2008), Prisoners (1998), cùng ba quyển sách phi hư cấu Rumors and Stones (1996), War Movies (2005) và Wandering Souls (2009).

Nhiều nhà văn Mỹ khi sáng tác về chiến tranh Việt Nam thường đặt người Mỹ làm trung tâm mà không hề đề cập con người và văn hóa Việt Nam. Nếu được đề cập, những nhân vật Việt Nam và bối cảnh Việt Nam xuất hiện thoáng qua, với mục đích làm nền cho những câu chuyện của người Mỹ. Tuy nhiên nhà văn Wayne Karlin có cách tiếp cận đầy nhân bản: trong những quyển sách nói trên của ông, người Việt và người Mỹ có những vị trí bình đẳng: bình đẳng trong sự phức tạp của cá tính, bình đẳng trong sự sâu hoắm của nỗi đau. Có thể nói, trong các tác phẩm của Wayne Karlin, những nhân vật người Việt - dù họ là người lính, thường dân hay một người con lai đã bị cha mẹ ruồng bỏ - được ông đặt ngang hàng với người Mỹ, không bị ông phân biệt đối xử. Dưới ngòi bút của ông, Việt Nam hiện ra như một đất nước, một nền văn hóa lâu đời và giàu bản sắc, chứ không chỉ là một cuộc chiến tranh.

Khi tôi hỏi Wayne Karlin rằng có phải ông viết để giúp làm lành những vết thương của chính mình hay không, ông bảo trái lại, đôi khi với việc viết, ông phải đào sâu hơn, khiến những vết thương đó đau đớn hơn. Nhưng ông không thể không viết.

Đôi nét về nhà văn Wayne Karlin:

Các tiểu thuyết của Giáo sư Wayne Karlin đã được vinh danh với năm giải thưởng nghệ thuật cá nhân từ tiểu bang Maryland, hai giải thưởng từ Quỹ nghệ thuật quốc gia Mỹ, giải thưởng Paterson, giải thưởng nghệ thuật xuất sắc của Hiệp hội cựu binh Mỹ, và gần đây nhất là giải thưởng Juniper năm 2019. Theo Niên giám từ điển văn học Mỹ,hai tiểu thuyết của Wayne Karlin Prisoners (Tù binh) và The Wished-For Country (Xứ sở ao ước) là những quyển sách xuất sắc của năm 1998 và 2002. Tuyển tập Love After War (Tình yêu sau chiến tranh), chủ biên cùng nhà văn Hồ Anh Thái, được tờ báo San Francisco Chronicle bình chọn là một trong những quyển sách hay nhất của năm 2003.

Người buông súng để cầm bút ảnh 1 Wayne Karlin đọc sách bên hầm cá nhân giữa chiến trường Việt Nam

Phát hiện vẻ đẹp tâm hồn con người

Những tác phẩm của Wayne Karlin có giá trị bởi chúng đầy ắp tính nhân bản. Tính nhân bản ấy được thể hiện rõ trong quyển sách Wandering Souls (Những linh hồn phiêu dạt), một quyển sách kỳ lạ. Quyển sách ấy khởi nguồn từ nhiều năm trước, khi cựu binh Homer Steedly - người từng đối đầu và bắn chết một người lính bắc Việt - liên lạc với Wayne Karlin và cho biết ông vẫn đang giữ quyển sổ của người lính ấy. Wayne Karlin cùng bạn bè ở Việt Nam ra sức tìm kiếm thông tin về người lính Việt Nam, với hy vọng có thể trả lại quyển sổ cho gia đình anh. Và họ đã tìm ra chủ nhân của quyển sổ: chiến sĩ quân y Hoàng Ngọc Đảm ở Thái Bình. Wayne Karlin đã trở về Việt Nam, trao trả lại quyển sổ cho gia đình liệt sĩ Hoàng Ngọc Đảm. Sau đó ông đã thuyết phục cựu binh Homer Steedly cùng trở lại với ông. Họ đã cùng gia đình liệt sĩ Hoàng Ngọc Đảm đi tìm hài cốt của anh.

Câu chuyện xúc động và có thật này đã được Wayne Karlin ghi lại trong quyển sách Wandering Souls (Những linh hồn phiêu dạt), phát hành ở Mỹ tháng 9/2009, và đã được NXB Thông Tấn dịch ra tiếng Việt và ấn hành vào ngày 30/4/2010. Những linh hồn phiêu dạt không chỉ là câu chuyện của chiến tranh, mà về con người: của Hoàng Ngọc Đảm và Homer Steedly - hai người lính nông dân từ hai đầu trái đất, cũng như về làng quê, gia đình và người thân của họ. Đó là câu chuyện về hành trình xuyên qua máu lửa chiến tranh, cái chết, để rồi kết thúc trong sám hối, cảm thông. Theo nhà văn Lê Minh Khuê, “Những linh hồn phiêu dạt” một lần nữa chứng tỏ tài năng của Wayne Karlin trong việc phát hiện ra vẻ đẹp của tâm hồn con người giữa cảnh đổ nát của chiến tranh và mất mát”. Thêm vào đó, với quyển sách này, Wayne Karlin thể hiện sự am hiểu của mình đối với văn hóa Việt Nam, trong đó có thế giới tâm linh của người Việt.

Ở độ tuổi 74 hiện nay, Wayne Karlin đang hàng ngày tận tụy chăm sóc người vợ đau yếu của mình. Bất cứ khi nào rảnh rỗi, ông lại miệt mài cho các dự án văn học. Ông cho biết các quyển sách dịch mà ông từng biên tập không thể nào ra đời được nếu không có công sức cần mẫn của các dịch giả như Nguyễn Quí Đức, Phan Thanh Hảo, Dương Tường, Bắc Hoài Trần, Dana Sachs, Rosemary Nguyen… Ông cũng vô cùng biết ơn sự giúp đỡ quý báu của những người bạn Việt Nam, đặc biệt là nhà văn Lê Minh Khuê và nhà văn Hồ Anh Thái.

Trả lời câu hỏi của tôi, rằng làm thế nào để nhiều hơn nữa các tác phẩm văn học Việt Nam được xuất bản ở thị trường quốc tế, giáo sư Wayne Karlin cho biết: “Trước hết cần các tác phẩm văn học giá trị, các bản dịch hay, và sự giúp đỡ của những người đại diện văn học. Ở hoàn cảnh hiện tại, ít nhất là ở Mỹ, những nhà xuất bản sẽ không hào hứng với những cuốn sách mà họ cho rằng không bán chạy. Vì thế những quyển sách và những câu chuyện liên quan đến những vấn đề toàn cầu được viết qua lăng kính văn hóa của một nhà văn sẽ có cơ hội được đón nhận”.

Người buông súng để cầm bút ảnh 2

Với các nhà văn Việt Nam

MỚI - NÓNG