Từ bài thơ gây chấn động dư luận và “đêm trước đổi mới”

Mười năm “gió bụi” cho một bài thơ

Mười năm “gió bụi” cho một bài thơ
TP - Kể từ  khi bài thơ “Mùa xuân nhớ Bác” đăng trên báo Tiền Phong, không ít người đã đến Khoa Văn Trường Đại học Tổng hợp xin đọc lý lịch của nữ sinh viên Phạm Thị Xuân Khải.

Một câu hỏi khá “nóng” lúc bấy giờ: Xuân Khải là người như thế nào? Làm sao một sinh viên đang ngồi trên ghế nhà trường, lại có thể sáng tác một bài thơ nặng trĩu nhân tình thế thái và đầy sự hiểu biết, từng trải như vậy? 

“Trung ương thấu rồi và đang sửa”

Nhưng sau khi nghe trọn lời nhắn của Thủ tướng Phạm Văn Đồng qua người thư ký, Xuân Khải xúc động đến phát khóc. Một lời nhắn thể hiện cái tâm, cái tầm của một vị Thủ tướng: “Nói với Xuân Khải là Trung ương thấu lắm rồi và đang sửa”. 

>> Toàn văn bài thơ "Mùa Xuân nhớ Bác"

Ngay sau đó Xuân Khải viết một bức thư dài gửi tới Thủ tướng Phạm Văn Đồng những tâm sự của mình. Gửi thư đi mà không dám mong hồi âm, vì Thủ tướng bận trăm công nghìn việc. Nhưng lại một bất ngờ nữa. Thủ tướng viết thư hồi âm cho Xuân Khải ngay. Thư viết tay, bằng mực bút máy:

Cháu Xuân Khải thân mến

Bác đã nhận được bức thư tâm sự của cháu.

Bức thư đó làm cho Bác hiểu cháu nhiều, từ đó Bác có mấy gợi ý với cháu: Việc gì đã qua và có thể cho qua được thì nên cho qua để làm những việc cần làm: Đối với cháu là học và hoạt động trong hoàn cảnh người sinh viên Bác khuyên cháu tập trung thì giờ học tốt ngành văn, sau này không bao giờ cháu có thì giờ và cơ hội như bây giờ để học và học tốt, điều chủ yếu  là đọc nhiều và suy nghĩ nhiều, cháu cần đọc hết (!) những tác phẩm lớn của nước ta và những tác phẩm lớn nhất của văn học  thế giới.

Chúc cháu khỏe, khỏe về cơ thể và tinh thần.

 20/5/1986   

 Thân ái,
Phạm Văn Đồng

Trong bức thư đó, Thủ tướng Phạm Văn Đồng gạch chân hai chữ  “gợi ý”  và “đọc”.

Mãi sau này khi Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nghỉ hưu, Xuân Khải mới gặp trực tiếp tác giả bức thư ngày nào.

“Tôi viết một bài phê bình văn học về tác phẩm “Ân hận suốt đời” của A.Nexo-nhà văn Đan Mạch trên tạp chí, bác Phạm Văn Đồng biết được, rất thích, nhắn tôi vào chơi và dặn mang quyển “Ân hận suốt đời” để tặng bác. Bác ân cần hỏi thăm sức khỏe của tôi và tình hình gia đình.

Gặp bác Đồng, tôi có cảm giác gần gũi như người thân lâu ngày gặp mặt. Bác bảo: “Bây giờ bác rảnh rồi, khi nào ra Hà Nội thì đến chơi với Bác”. Và chẳng ngờ bác vẫn còn nhớ bài thơ “Mùa Xuân nhớ Bác” (MXNB) và nhắc lại hai từ “thấu” và “sửa” đã nhắn với tôi ngày nào: “Bài thơ cháu viết rất hay. Cháu thấy không, như vậy là có đổi mới rồi, như vậy là Trung ương thấu rồi, sửa rồi. Bây giờ cháu còn viết được bài nào nữa không?”. Bà nhớ lại ngày ấy với một nụ cười tươi.

Kể từ  khi bài thơ MXNB đăng trên báo Tiền Phong, không ít người đã đến khoa Văn Trường Đại học Tổng hợp xin đọc lý lịch của nữ sinh viên Phạm Thị Xuân Khải. Một câu hỏi khá “nóng” lúc bấy giờ: Xuân Khải là người như thế nào? Làm sao một sinh viên đang ngồi trên ghế nhà trường, lại có thể sáng tác một bài thơ như vậy? 

Những ai đã đọc lý lịch của Xuân Khải đều biết: Cô có một ông bố làm chức to ở Ban Tổ chức Trung ương Đảng nhưng chẳng hề nhờ cậy mà hơn mười năm trước đã viết đơn bằng máu tình nguyện xin đi vào chiến trường đánh Mỹ. “Quăng thân vào gió bụi” mười năm. Đủ cả nụ cười, nước mắt và máu... Mười năm ba cùng với người dân, thấu những tiếng lòng của người dân, để viết bài MXNB trong một giờ. 

Phạm Thị Xuân Khải sinh ra ở huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định trong một gia đình có truyền thống cách mạng. Năm lên 8 tuổi Xuân Khải tập kết ra Bắc, lúc đó bố cô, ông Phạm Chấn Hưng đang giữ chức Vụ phó Vụ Miền Nam của Ban Tổ chức Trung ương Đảng.

Năm lên tám tuổi, tản cư ở Hải Phòng  xin vào học lớp 1 nhưng suýt bị từ chối vì bé quá, như thể mới 4, 5 tuổi. Những năm tháng học phổ thông, Xuân Khải đã thấm  cuộc sống nghèo đói, vất vả khi mà cả đất nước phải gồng mình đánh Mỹ. Năm lớp 8 Xuân Khải về Hà Nội học trường Chu Văn An và luôn đạt kết quả xuất sắc.

Bố mẹ hy vọng cô con gái sẽ vào Đại học vì hai người em đều đã xung phong đi bộ đội. Thế nhưng năm 1972, nghe tin người em trai hy sinh, Xuân Khải lòng quặn thắt, quyết xin đi B.

Ông Võ Chí Công lúc đó đang là Bí thư Khu uỷ Khu V, ra Hà Nội công tác, đến nhà Xuân Khải chơi, biết chuyện, ông nói: “Thôi, em cháu một đứa hy sinh rồi, một đứa đang ở chiến trường. Cháu cứ học đại học đi, để rồi xem tình hình thế nào bác sẽ cho đi với bác”.

Mười năm “gió bụi” cho một bài thơ ảnh 1
Xuân Khải làm phóng viên (Một chuyến đi viết bài về khai hoang phục hóa tại Quang Hiển-Phước Thành-Tuy Phước-Bình Định tháng 4/1976)

Hai năm sau, khi đang học năm thứ 2  khoa Văn ở Đại học Tổng hợp, Xuân Khải lại viết đơn bằng máu xin đi B. Lần này, không ai ngăn được cô gái đất võ Bình Định này. “Xếp bút nghiên”, Xuân Khải theo đoàn quân giải phóng Nam tiến.

Cô làm phóng viên cho tờ báo “Cờ giải phóng” của khu V, xông pha vào những điểm nóng của cuộc chiến để đưa tin viết bài. Miền Nam hoàn toàn giải phóng, đáng lẽ ra Hà Nội để tiếp tục nghiệp đèn sách còn dang dở, Xuân Khải lại tình nguyện về Bình Định xây dựng quê hương.

Cô được phân công về làm biên tập ở Sở Văn hoá. Nói là biên tập nhưng cô không ngồi bàn giấy mà hầu hết thời gian đi thực tế ở cơ sở. Chẳng nhớ bao nhiêu lần bàn chân cô đã bỏng rát vì giẫm lên vùng cát Hoài Nhơn nóng bỏng. Nhưng càng đi càng buồn. Niềm vui của ngày đại thắng qua nhanh quá.

Những chuyện buồn thời hậu chiến

Hoà bình rồi  mà người dân vẫn còn đói khổ. Tỉnh Nghĩa Bình (cũ) chỉ đứng sau Quảng Nam (Đà Nẵng cũ) về số liệt sỹ, nhưng những vùng càng nhiều liệt sỹ lại càng khó khăn. Bởi ngày trước, chính quyền Mỹ - ngụy đã tìm cách xua dân ra khỏi những vùng đất trung kiên đó, nhằm “tát nước bắt cá”, tách dân ra khỏi phong trào cách mạng.

Sau giải phóng, những xóm làng xưa trở nên hoang vắng, cây mọc lan thành rừng. Dưới lòng đất vẫn còn đầy bom mìn. Có lần Xuân Khải đã suýt chết khi cô mắc võng trên một lùm cây có bom ẩn phía dưới.

Bà con trở về dựng lại mái nhà trên nền đất cũ. Khó khăn chồng chất. Các ông già bà cả phải lên rừng chặt củi về đổi lấy gạo ăn qua ngày. Hòa bình 10 năm rồi mà cuộc đời chưa ra khỏi bát cơm. Trường học rách rưới.  Thời hậu chiến, hình như đã có sự lãng quên?

Có lần nhận được hàng viện trợ nhân đạo của nước ngoài, các cụ già vui lắm, xếp hàng nhận quà. Mở gói quà ra, không ít cụ òa khóc. Gói quà toàn quần lót! Đáng lẽ ra, nhận được hàng viện trợ là những thứ đồ kia, cán bộ phải bán đi để mua thứ hàng khác thiết thực hơn để tặng bà con. Đằng này, họ cứ “thật thà” cho cả vào.

Sự “thật thà” ấy dẫu sao vẫn còn hơn  những kiểu tham nhũng, tiêu cực bắt đầu nổi lên đầu những năm thập kỷ 80 của thế kỷ trước...

Năm 1986, Xuân Khải ra Hà Nội học tiếp Đại học Tổng hợp  sau khi đã gián đoạn mất mười mấy năm, lòng nặng trĩu những câu chuyện buồn thời hậu chiến...

Một đêm mùa xuân, mồng 4 Tết Bính Dần, nghe bài hát “Việt Nam trên đường chúng ta đi”  cất lên trên sóng Đài Tiếng nói Việt Nam, Xuân Khải rưng rưng xúc động. Hai giờ sáng, cô cầm bút  viết dòng chữ đầu tiên “Mùa xuân nhớ Bác”. Những vần thơ cứ thế tuôn trào...

“Trong các câu thơ tôi có nhắc đến Bác Hồ nhiều lần. Tôi đã có những kỷ niệm sâu sắc về những lần được gặp Bác Hồ...”. Bà cầm quyển “Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh” đã gìn giữ suốt hơn ba mươi năm nay, uống một ngụm nước trà và tiếp tục câu chuyện...

Kỳ 1: Kỳ trước: “Đêm trước” đổi mới và “trái bom” thơ

Kỳ II: Ba ngàn lá thư, hàng triệu tấm lòng

Kỳ tới: Trong “tâm bão”

MỚI - NÓNG