Một sự kết thúc chiến lược vô song (Tiếp theo và hết)

Một sự kết thúc chiến lược vô song (Tiếp theo và hết)
Giờ đây, Quân đội Nhân dân Việt Nam sử dụng lại chiến thuật này nhưng trên quy mô lớn hơn nhiều.

Vì Ban Mê Thuột kháng cự khá yếu ớt (chỉ có Trung đoàn bộ binh số 53 trang bị yếu kém, một tiểu đoàn pháo binh và một tiểu đoàn thiết giáp, và vài tiểu đoàn lính địa phương (35), chỉ cần một cuộc tấn công ồ ạt và bất ngờ vào thành phố là có thể nhanh chóng đè bẹp lực lượng kháng cự.

Một khi thành phố đã bị chiếm, các lực lượng Quân đội Nhân dân Việt Nam có thể triển khai để phong tỏa và đánh tan những cuộc phản công của quân lực Việt Nam Cộng hoà trong khi lực lượng quân tiếp viện của Nam Việt bị chặn đứng từ ngoài, bị phơi bầy lực lượng mà không thể tiến sâu vào được.

Ngày 7 tháng 1 năm 1975, tại phiên họp kết thúc, Bộ Chính trị đã thông qua một kế hoạch mới. Bí thư thứ nhất Lê Duẩn đã trình bày những mục tiêu của cuộc tấn công mới:

Ở Quân khu V và Tây Nguyên sử dụng 3 sư đoàn chủ lực để tấn công Tây Nguyên, mở một hành lang nối Nam Tây Nguyên với Đông Nam Bộ, và tạo mọi điều kiện cho các đơn vị chủ lực tiến nhanh vào Đông Nam Bộ phối hợp với các đơn vị chủ lực (của Trung ương Cục miền Nam) khi tiến công vào Sài Gòn.

Trận đánh mở màn sẽ nhằm chiếm Ban Mê Thuột, đột phá Tuy Hoà và Phú Yên, cắt phía hạ du thuộc Quân khu V (và Nam Việt Nam) làm hai, và mở ra một hướng khác để tiến nhanh về phía Nam, tạo thành sức ép vào Sài Gòn (36).

Trước triển vọng tương lai đầy hứa hẹn, Bộ Chính trị, theo đề nghị của tướng Giáp đã ra lệnh cho Bộ Tổng tham mưu chuẩn bị một “kế hoạch thời cơ mới” (a new contingency plan) để thu hồi toàn bộ miền Nam Việt Nam trước khi kết thúc năm 1975 (37).

Hai ngày sau, Quân ủy Trung ương họp và đề ra những mục tiêu đặc biệt cho chiến dịch Tây Nguyên 1975:

  •  Tiêu diệt từ 4 đến 5 trung đoàn bộ binh địch, từ 1 đến 2 sư đoàn thiết giáp và gây tổn thất nặng nề cho các đơn vị thuộc Quân đoàn 2 của Việt Nam Cộng hoà.
  • Giải phóng các tỉnh Daklak, Phú Bổn, Quảng Đức mà mục tiêu chính là thành phố Ban Mê Thuột.
  • Nếu thời cơ xuất hiện, mở rộng cuộc tấn công lên phía Bắc giải phóng các tỉnh Pleiku và KonTum hoặc tiến sang phía đông đánh chiếm Phú Yên và Khánh Hoà (38).

Để biểu thị tầm quan trọng của chiến dịch này, Ban lãnh đạo đã ra lệnh cho Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng ngay lập tức lên đường tới Ban Mê Thuột với tư cách là đại diện của Bộ Chính trị và nắm toàn quyền chỉ huy chiến dịch Tây Nguyên (39).

Kế hoạch mới của Quân đội Nhân dân Việt Nam là một kế hoạch đã    hoàn toàn thay đổi và táo bạo. Một viên tướng chỉ huy của Việt Nam Cộng hoà, sau khi Sài Gòn thất thủ, nói rằng ông ta nhận thấy trong chiến lược của Quân đội Nhân dân Việt Nam sự phản ánh tư duy chiến lược của B.H.Liddell Hart về cách tiếp cận gián tiếp (indirect approach) (40).

Đòn then chốt của Quân đội Nhân dân Việt Nam không đánh trực tiếp    vào lực lượng chủ lực của quân địch, mà đánh vào điểm yếu về phòng thủ nhưng lại có tầm quan trọng chiến lược mà kẻ địch không dám để mất. Bản kế hoạch nhấn mạnh những nguyên tắc: tập trung hỏa lực đánh đồng loạt, thần tốc, bất ngờ và đánh lạc hướng kẻ địch.

Cuối cùng, việc chiếm được Ban Mê Thuột đã cho phép Quân đội Nhân dân Việt Nam có thể lựa chọn nhiều phương án khác nhau cho những bước tiến tiếp theo, buộc quân đội Việt Nam Cộng hoà vốn đã bị dàn mỏng, không thể đoán được các đòn đánh tiếp theo của Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Việc ban bố bản kế hoạch đó đã đặt Nam Việt Nam vào vị thế mà Liddell Hart đặc biệt ưa thích để nói về kẻ thù: “Phải xoay xở trong tình thế tiến thoái lưỡng nan”. Tình thế đó dễ làm cho các chỉ huy của quân      đội Việt Nam Cộng hòa phạm phải sai lầm và bảo đảm cho Quân đội Nhân dân Việt  Nam sẵn sàng khai thác bất cứ thời cơ nào.

Thực thi kế hoạch

Các sự kiện từ đây bắt đầu diễn ra nhanh chóng. Các đơn vị tham gia     vào cuộc tấn công (bao gồm các Sư đoàn 10 và Sư đoàn 320 ở mặt trận Tây Nguyên; Sư đoàn 968 từ Lào tiến về; Sư đoàn 316 được đưa từ    miền Bắc vào Nam bằng phương tiện cơ giới; bốn trung đoàn bộ binh     độc lập; các đơn vị công binh, pháo binh và thiết giáp; và 8.000 lính mới tuyển từ miền Bắc Việt Nam) đã tới các địa điểm tập kết (41).

Được bảo đảm bởi một mạng lưới tình báo tuyệt vời làm cho phía Nam Việt Nam không phát hiện được ý đồ thực sự của đối phương, và biết rằng không thể giữ hoàn toàn bí mật việc chuẩn bị hậu cần và tiếp tế trên quy mô lớn, những người Cộng sản đã tổ chức một chiến dịch đánh lạc hướng tinh vi nhằm đánh vào điểm mạnh nhất trong bộ máy tình báo của kẻ địch: các trang bị trinh sát điện tử và thám sát trên không của Việt Nam Cộng hoà và đồng minh Mỹ (42). Đài phát thanh được lệnh phải im lặng tuyệt đối, không được để lộ tin tức về những đơn vị tham gia vào cuộc tấn công (43).

Các nhân viên làm nhiệm vụ đánh lạc hướng của Quân đội Nhân dân Việt Nam đã gửi đi hàng trăm bức thông điệp giả qua sóng vô tuyến, cố ý để lộ những hoạt động vận chuyển cơ giới và những hoạt động làm đường được ngụy tạo, tất cả những thông tin giả đó nhằm làm cho phía Nam Việt yên tâm là các Sư đoàn 10 và 320 của Quân đội Nhân dân Việt Nam vẫn đang tập trung quanh Pleiku và Kon Tum và hai thành phố phía bắc Tây Nguyên này chắc chắn là những mục tiêu đích thực của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Hoạt động đánh lạc hướng hiệu quả đến mức hàng loạt báo cáo lấy tin khai thác từ các tù binh và do các điệp viên chìm gửi về cho rằng Quân đội Nhân dân Việt Nam thực sự sắp tấn công Ban Mê Thuột, nhưng những tin tức tình báo đó đã không được các tướng chỉ huy quân đội Việt Nam Cộng hoà quan tâm đến (44).

Khoảng cuối tháng Hai, tất cả các đơn vị của Quân đội Nhân dân Việt Nam đã vào vị trí chiến đấu. Ngày 1 tháng 3, Sư đoàn 968 đã tấn công một số đồn bốt nhỏ ở phía Tây Pleiku, thu hút sự chú ý của quân đội Việt Nam Cộng hoà và mối đe dọa đối với thành phố này.

Ngày 4 tháng 3, cuộc tấn công của Quân đội Nhân dân Việt Nam đã mở đầu bằng trận công kích của Trung đoàn 95A, sau khi trung đoàn này vừa đánh chiếm một số đồn nhỏ của lực lượng Việt Nam Cộng hoà đang bảo vệ Đường 19 trên đèo Mang Yang, nhờ đó đã đe dọa nghiêm trọng con đường tiếp vận chính của quân lực Việt Nam Cộng hoà cho vùng Tây Nguyên.

Xa hơn về phía đông trên Đường 19, Sư đoàn 3 của Quân đội Nhân dân Việt Nam đã tung ra một trận tấn công, tạo thêm nhiều vết cắt nữa trên con đường vận chuyển sống còn và giam hãm Sư đoàn 22 của quân lực Việt Nam Cộng hoà.

Ngày hôm sau, Trung đoàn 25 của Quân đội Nhân dân Việt Nam đã cắt đứt Đường 21, một con đường khác duy nhất nối Tây Nguyên với vùng ven biển, nằm giữa Ban Mê Thuột và Nha Trang. Quân lực Việt Nam Cộng hoà ở Tây Nguyên giờ đây đã bị cô lập và phụ thuộc hoàn toàn vào việc tiếp tế bằng đường không.

Các phương tiện vận tải đường không của lực lượng không quân Nam Việt vừa ít về số lượng vừa kém về chất lượng hoàn toàn không có khả năng đảm đương việc vận chuyển quân cụ và binh lính ở quy mô lớn như vậy. Tổng thống Nam Việt Nguyễn Văn Thiệu và Bộ Tổng Tham mưu của ông ta đều hiểu rằng nếu Đường 19 và Đường 21 không được mở lại sớm thì quân lực Việt Nam Cộng hoà đóng ở Tây Nguyên sẽ nhanh chóng bị cạn  lương thực, nhiên liệu và đạn dược.

Ngày 8 tháng 3, Sư đoàn 320 của Quân đội Nhân dân Việt Nam đã đánh chiếm một thị trấn nằm trên Đường 14 ở phía Bắc Ban Mê Thuột, cắt đứt con đường đi đến Pleiku và cô lập hoàn toàn Ban Mê Thuột. Tình thế đã sẵn sàng cho một trận tấn công cuối cùng, nhưng quân đội Việt Nam Cộng hoà vẫn không đoán được Ban Mê Thuột đã trở thành mục    tiêu (45).

Theo dõi tình hình tiến triển từ Sài Gòn, Tổng thống Thiệu và Bộ Tổng Tham mưu của ông ta vẫn không đoán được đòn tấn công chính sẽ rơi    vào đâu. Một phần hiệu quả của chiến dịch đánh lạc hướng của Quân đội Nhân dân Việt Nam là đã ngăn chặn quân lực Việt Nam Cộng hoà điều động lực lượng dự bị lên tăng cường cho Tây Nguyên (46).

Vài ngày trước khi tấn công Ban Mê Thuột, lực lượng Bắc Việt đã tung ra một đợt sóng tấn công trên khắp miền Nam Việt Nam. ở phía Bắc (miền Nam Việt Nam), ngày 5 tháng 3, lực lượng du kích nằm vùng đã tấn công vùng hạ du Quảng Trị và Thừa Thiên.

Ngày 8 tháng 3, Sư đoàn 324 đã giáng một đòn mạnh vào tuyến phòng thủ chính của quân lực Việt Nam Cộng hoà ở phía Tây- Nam Huế (47). ở phía Nam, ngày 8 tháng 3, tổ chức hàng loạt cuộc tấn công trên địa phận Sài Gòn và vùng Đồng bằng sông Cửu Long, chiếm được một huyện lỵ then chốt ở Tây- Bắc Sài Gòn (48).

Tổng thống Thiệu và các tướng lĩnh của ông ta vô cùng bối rối. Một cuộc tấn công trên toàn quốc chắc chắn sẽ xảy ra, nhưng mục tiêu chính của Quân đội Nhân dân Việt Nam là ở đâu? Nơi nào sẽ gặp nguy hiểm lớn nhất? Đối với Thiệu và các tướng lĩnh của ông ta, câu trả lời có vẻ hiển nhiên: thủ đô, Sài Gòn. Kế hoạch đánh lạc hướng của Quân đội Nhân dân Việt Nam đã được thực hiện hoàn hảo.

Ngày 9 tháng 3, Sư đoàn 10 Quân đội Nhân dân Việt Nam với hai trung đoàn bộ binh (E28 và E 66) chỉ được yểm trợ bởi hai khẩu pháo 105 mm với 50 viên đạn, đã đánh chiếm Đức Lập cùng với toàn bộ các cứ     điểm phòng thủ vòng ngoài trong vòng 24 giờ. Quân lực Việt Nam Cộng hoà bị tổn thất ở Đức Lập tổng cộng 3 đại đội, 14 khẩu pháo và 20 xe thiết giáp (49). Sau khi củng cố lực lượng, Sư đoàn 10 vừa giành được chiến thắng lại tiếp tục hành quân về phía Bắc, hướng đến Ban Mê Thuột.

Trong vòng vài giờ sáng sớm ngày 10 tháng 3, 12 trung đoàn của Quân   đội Nhân dân Việt Nam đã đồng loạt tung ra một trận tấn công bất ngờ vào Ban Mê Thuột. 

Trung đoàn 198 và hai tiểu đoàn bộ binh chính quy đã bí mật xâm nhập   vào hai sân bay của thành phố Ban Mê Thuột đang trong tình trạng giới nghiêm, kho tiếp vận Mai Hắc Đế và Bộ chỉ huy Sư đoàn 23. Năm trung đoàn bộ binh (3E lấy từ Sư đoàn 316, E24 thuộc Sư đoàn 10 và những chiến binh dày dạn kinh nghiệm của E95B thuộc Sư đoàn 325) tiến nhanh vào thành phố theo ba hướng, có 64 xe tăng và xe bọc thép của Trung đoàn thiết giáp 273 dẫn đầu được yểm trợ dưới hỏa lực của 78 khẩu pháo hạng nặng của các Trung đoàn pháo binh 40 và 675 (50).

Các Trung đoàn phòng không 232 và 234 cùng phối hợp tấn công đã giương lên một chiếc ô hỏa lực phòng không mạnh đến mức lực lượng không kích ném bom của quân lực Việt Nam Cộng hòa không những bị vô hiệu hóa mà chính lực lượng này còn gây thêm tổn thất cho các đơn vị Nam Việt Nam và cả những vị trí được xem là mục tiêu của Quân đội Nhân dân Việt Nam (51).

Sau 32 giờ chiến đấu, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã chiếm được sở chỉ huy của Sư đoàn 23 và bắt sống viên   phó tư lệnh sư đoàn (52). Tướng Dũng thông báo với Hà Nội rằng lực lượng của ông đã thu giữ được 12 khẩu pháo và 100 tấn đạn pháo ở Ban Mê Thuột, bảo đảm với Bộ Tổng Tham mưu là cuộc tấn công có thể tiến hành mà không gặp khó khăn gì về đạn dược (53).

Trong cuộc họp Bộ Chính trị ngày 11 tháng 3, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn   đã đưa ra thảo luận về khả năng có thể xuất hiện thời cơ chiến lược, thời điểm tung ra cuộc tổng tấn công cuối cùng (54). Trong chiến tranh, chiến thắng sẽ thuộc về bên nào sẵn sàng để giành lấy nó. Bắc Việt Nam đã chuẩn bị sẵn sàng.

Tiếng trống tấn công nổi liên hồi, thoạt tiên hình như nhằm vào Pleiku, sau đó là Sài Gòn và Huế, và giờ đây, thật bất ngờ, tấn công vào Ban Mê Thuột, những đòn tâm lý đã làm choáng váng các nhà lãnh đạo Nam Việt Nam.

Lúng túng, vô vọng và trong tình trạng thực sự bị choáng, Tổng thống Nam Việt Nam Nguyễn Văn Thiệu đã đưa ra hai quyết định trọng yếu trong hai ngày 10 và 11 tháng 3 ấn định số  phận của miền Nam Việt Nam.

Cho đến lúc đó, Thiệu vẫn không nghĩ rằng Ban Mê Thuột lại là mục tiêu chính của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Tuy nhiên, Thiệu biết chắc rằng ông ta đang phải đương đầu với một cuộc tấn công toàn lực và mục tiêu cuối cùng của Quân đội Nhân dân Việt Nam sẽ là Sài Gòn.

Hành động đầu tiên của Thiệu là ra lệnh triệu hồi ngay lập tức sư đoàn không vận của quân lực Việt Nam Cộng hoà, bộ phận phòng thủ thiết    yếu của Quân đoàn Một, để gánh vác nhiệm vụ bảo vệ Sài Gòn (55). Khi các tướng chỉ huy cố gắng điều động các đơn vị và bố trí lại để lấp khoảng trống do sự rút đi của Sư đoàn không vận để lại, hệ thống phòng thủ của Quân đoàn Một bắt đầu chuệch choạc chẳng khác gì một ngôi   nhà bằng bìa các tông.

Hành động thứ hai mà phía Bắc Việt tin chắc sẽ diễn ra, Thiệu đã ra lệnh ngay lập tức mở cuộc phản công để chiếm lại Ban Mê Thuột “bằng mọi giá” (56). Do đường đến Ban Mê Thuột bị cắt đứt, Tổng chỉ huy Quân    đoàn Hai của quân lực Việt Nam Cộng hoà, tướng Phạm Văn Phú đã buộc phải gửi hai trung đoàn còn lại của Sư đoàn 23 đến mặt trận bằng máy bay trực thăng, cho năm tiểu đoàn nhảy dù đổ bộ xuống địa phận   phía đông Ban Mê Thuột trong những ngày 12-14 tháng Ba, không có  thiết giáp và chỉ được pháo binh yểm trợ hạn chế.

Hai trung đoàn nhảy dù đổ bộ đã lọt vào chính giữa vùng “tử địa” mà Quân đội Nhân dân Việt Nam đã bày sẵn. Sư đoàn 10 vừa từ Đức Lập đến, được yểm trợ bởi một lực lượng thiết giáp và pháo binh hùng mạnh, đang nằm chờ sẵn.

Trong bốn ngày tấn công như vũ bão, Sư đoàn 10 đã nghiền nát và tiêu diệt tất cả những gì còn sót lại của Sư đoàn 23 và Lữ đoàn biệt động quân của quân lực Việt Nam Cộng hoà (57).

Trong lúc đó, những tàn quân cuối cùng của đội quân hùng mạnh thuở nào của quân lực Việt Nam Cộng hoà trên vùng cao nguyên (Tiểu đoàn Biệt động 19, một tiểu đoàn bộ binh, ba sư đoàn thiết giáp và sáu tiểu đoàn pháo binh), khi mọi con đường tiếp vận đã bị cắt đứt, không một chút hy vọng được tiếp tế hoặc được giải cứu, đã hoàn toàn suy sụp (58).

Mệnh lệnh mà Thiệu đưa ra ngày 14 tháng Ba, rút các lực lượng này khỏi Pleiku, chạy theo tỉnh lộ 7B, một con đường hầu như không còn sử dụng được, để ra vùng ven biển là một hành động vô vọng nhằm vớt vát phần nào lực lượng còn lại ở Tây Nguyên. Một mệnh lệnh ngu ngốc, việc thực hiện mệnh lệnh thì tồi tệ, nhưng trong bối cảnh đó, một mệnh lệnh như vậy là có thể hiểu được.

Khi các lực lượng của tướng Dũng đã đánh tan hoàn toàn đội ngũ quân lực Việt Nam Cộng hoà đang rút chạy khỏi Pleiku, tướng Giáp đã ra lệnh cho các lực lượng chủ lực ở gần Huế làm con đường vòng qua tuyến phòng thủ vùng núi của quân đội Việt Nam Cộng hoà theo đúng ý đồ tấn công ban đầu của Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Tướng Giáp đã lệnh cho Quân đoàn Hai điều động Sư đoàn 324 và Sư đoàn 325 đánh thẳng vào vùng đất thấp ven biển, cắt Đường số Một, con đường rút lui chính của quân lực Việt Nam Cộng hoà, và đánh tan các lực lượng rút chạy không để chúng co cụm lại và củng cố (59). Bị bắt trong lúc tháo chạy, bị đánh chặn và bị cô lập, các đơn vị đang rút chạy của quân lực Việt Nam Cộng hoà đã bị quét sạch trong cơn hoảng loạn.

Đoạn kết

Vào khoảng thời gian đó, trong phiên họp lịch sử của Bộ Chính trị ngày 18 tháng Ba, tướng Giáp đã đóng chiếc đinh cuối cùng vào cỗ quan tài của chế độ Nam Việt Nam. Thời cơ chiến lược mong đợi từ lâu giờ đây đã xuất hiện. Ông đề nghị quân đội triển khai ngay lập tức một cuộc tổng tấn công trên cả nước để giành quyền kiểm soát toàn bộ miền Nam Việt Nam trước khi kết thúc năm 1975. Quân đoàn Một tinh nhuệ, lực lượng dự trữ chiến lược cuối cùng của Bắc Việt giờ đây sẽ được giao nhiệm vụ chiến đấu. Bộ Chính trị chấp thuận ngay đề nghị của tướng Giáp và ra các mệnh lệnh triển khai cuộc Tổng tấn công vào Sài Gòn (60).

Với quyết định đó, kết cục của cuộc chiến tranh chẳng còn gì phải bàn cãi. Trong bản kê khai báo tử, ngày 30 tháng Tư năm 1975 được coi là giờ chết, nhưng phát súng bắn hạ chế độ Việt Nam Cộng hoà đã được Đại tướng Võ Nguyên Giáp khai hoả từ ngày 18 tháng Ba… Thắng lợi cuối cùng của tướng Giáp là một thắng lợi ít đổ máu nhất.

Chú thích:

35. Lịch sử Quân đội Nhân dân Việt Nam.

36. Hoàng Văn Thái.

37. Lịch sử Quân đội Nhân dân Việt Nam – Trần Văn Trà.

38. Lịch sử Quân đội Nhân dân Việt Nam.

39. (Như trên)

40. Stephen Kosmer, Konrrad Kellen, Brian Jenkins.

41. (Như trên).

42. Frank Snepp – Trần Văn Trà.

43. Lịch sử Quân đội Nhân dân Việt Nam.

44. Lịch sử Quân đội Nhân dân Việt Nam – Frank Snepp.

45. Hoàng Văn Thái.

46. Xuân Thiều – Nguyễn Khắc Ngữ.

47. Lịch sử Quân đội Nhân dân Việt Nam – Nguyễn Khắc Ngữ.

48. Trần Văn Trà - Lịch sử Quân đội Nhân dân Việt Nam.

49 Lịch sử Quân đội Nhân dân Việt Nam – Văn Tiến Dũng.

50. Lịch sử Quân đội Nhân dân Việt Nam.

51. Lịch sử Quân đội Nhân dân Việt Nam – Frank Snepp.

52. Lịch sử Quân đội Nhân dân Việt Nam.

53. Hoàng Văn Thái.

54. Trần Văn Trà - Hoàng Văn Thái.

55. Kosmer, Kellen, Jenkins – Davidson – F.Snepp.

56. Kosmer, Kellen, Jenkins – Davidson.

57. Lịch sử Quân đội Nhân dân Việt Nam.

58. (Như trên).

59. (Như trên) – Xuân Thiều.

60. Hoàng Văn Thái.

MỚI - NÓNG
Đại tướng Phan Văn Giang: Phải có cơ chế, chính sách thúc đẩy công nghiệp quốc phòng phát triển
Đại tướng Phan Văn Giang: Phải có cơ chế, chính sách thúc đẩy công nghiệp quốc phòng phát triển
TPO - Chiều 23/4, Đại tướng Phan Văn Giang - Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng cùng đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Thái Nguyên, đã tiếp xúc cử tri chuyên đề lấy ý kiến vào dự thảo Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên trước Kỳ họp thứ bảy, Quốc hội khóa XV.