Nói thế để những người không theo nghề đi biển dễ dàng mường tượng những hiểm nguy mà ngư dân Việt đã và đang phải đối mặt trong nhiều năm qua. Một đất nước với hơn 3.000 km bờ biển, là quốc gia “mặt tiền” của khu vực biển Đông, của Thái Bình Dương nhưng ngư dân ta vẫn còn qua nhiều nỗi gian truân. Từ việc trông trời, trông nước, trông mây, đến chuyện vốn liếng, tiền dầu, tiền nước đá, tiền nợ ngân hàng, nợ đầu nậu… Không chỉ lo lắng lúc trời dông gió, bão bùng, lo con tàu gỗ mong manh không chịu được sóng to gió lớn, không chỉ lo ngư trường cạn kiệt, mà còn đó là những nỗi lo bắt nguồn từ “nhân tai”. Đánh bắt trên biển của ta nhưng vẫn nơm nớp với “tàu lạ”, với thói côn đồ cậy mạnh của láng giềng, những lệnh cấm đánh bắt đơn phương, ngang ngược, bất chấp đạo lý và luật lệ. Ngư dân Việt không chỉ lo bị ngáng trở, bị bắt giữ vô lối đòi tiền chuộc, bị đập phá, đốt tàu, mà còn lo những đoàn thuyền đánh cá ngoại bang tràn qua biển của ta như ở nhà họ, mặc sức đánh bắt, tận diệt vô tội vạ cho thỏa lòng tham.
Biển Đông đang nóng lên từng ngày như nỗi lòng của ngư dân Việt. Họ tuy chịu nhiều gian khổ, tuy luôn phải đối đầu với hiểm nguy nhưng vẫn một lòng bám biển, một phần vì biển cả là sinh kế của họ, một phần do họ còn mang trên vai một trọng trách mà bất cứ người dân yêu nước nào cũng sẵn sàng đảm nhận. Đối với mỗi ngư dân, ngoài lý do sinh kế, chuyện bám biển là một cách thiết thực thể hiện lòng yêu nước, thể hiện quyền làm chủ của công dân một quốc gia có chủ quyền. Có thể nói ngư dân là một lực lượng quan trọng trong công cuộc bảo vệ chủ quyền biển đảo.
Tuy nhiên, những biện pháp hỗ trợ ngư dân, không phải là không có, nhưng dường như chưa đủ và còn những bất cập.Những trao đổi tại nghị trường về các vấn đề liên quan đến ngư dân và ngư nghiệp hôm qua giữa đại biểu Quốc hội và Bộ trưởng NN&PTNT đã cho thấy điều đó.
Hỗ trợ ngư dân do vậy, cần phải được làm tốt hơn, mạnh hơn, hiệu quả hơn. Bởi ngư nghiệp giờ đây không chỉ đơn thuần là một ngành kinh tế.