Bệnh nhân Đ. có tiền sử viêm gan B và xơ gan nhiều năm. Khi bệnh tiến triển sang giai đoạn cuối, các biến chứng như xuất huyết tiêu hóa liên tiếp khiến ông suy kiệt. Phương án ghép gan khi ấy là “phao cứu sinh” duy nhất giúp ông duy trì sự sống. Sau quá trình hội chẩn kĩ lưỡng, bệnh nhân được tiến hành ghép gan từ người cho chết não.
Ca ghép gan diễn ra thuận lợi, song biến chứng không dừng lại ở đó. Chỉ ít lâu sau mổ, bệnh nhân xuất hiện tình trạng rò đường mật khi dịch mật rò rỉ ra ngoài hệ thống ống dẫn, gây nhiễm trùng nặng và tái đi tái lại. Dù đã được can thiệp, điều trị và hội chẩn nhiều lần, tình trạng vẫn chưa được kiểm soát. Nhiễm trùng đường mật kéo dài khiến bệnh nhân bị viêm phổi, tràn dịch màng phổi, có nguy cơ rơi vào sốc nhiễm khuẩn.
Trong tình huống nguy kịch đó, bệnh nhân được chuyển tới Trung tâm Khám chữa bệnh theo yêu cầu và quốc tế, Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương để điều trị chuyên sâu.
Khi nhập viện, bệnh nhân Đ. sốt cao, khó thở, phải thở oxy, biểu hiện rõ tình trạng nhiễm trùng nặng và tiền sốc nhiễm khuẩn. Xét nghiệm cho thấy chỉ số nhiễm trùng tăng rất cao, dịch mật có chứa vi khuẩn đa kháng, trong khi hình ảnh CT phát hiện tổn thương phổi lan tỏa, kèm dịch ở ổ bụng và màng phổi.
Các bác sĩ tại Trung tâm đã nhanh chóng hội chẩn liên khoa, thiết lập phác đồ kháng sinh phối hợp phổ rộng, đồng thời điều trị tích cực nhiễm trùng, hồi sức và hỗ trợ đa chuyên khoa. Sau ba ngày điều trị tích cực, bệnh nhân cắt sốt, hô hấp cải thiện, cai được oxy. Chức năng gan dần ổn định, các chỉ số viêm trở về bình thường.
Sau 20 ngày điều trị, tình trạng lâm sàng của ông Đ. ổn định. Vi khuẩn trong dịch mật đã cấy âm tính, dịch phổi và dịch ổ bụng được xử lí triệt để, bệnh nhân đủ điều kiện xuất viện.
Điều trị chuyên sâu – chìa khóa cứu sống bệnh nhân sau ghép gan
Theo bác sĩ, ThS. Đặng Văn Dương, người trực tiếp điều trị bệnh nhân, ghép gan tuy là “phao cứu sinh” cho người bị xơ gan giai đoạn cuối, nhưng hành trình sau đó không hề dễ dàng.
“Bệnh nhân ghép gan phải dùng thuốc chống thải ghép suốt đời, khiến hệ miễn dịch suy giảm và dễ mắc các bệnh nhiễm trùng nặng. Nếu lại xuất hiện biến chứng như rò mật, tuy hiếm gặp nhưng cực kì nguy hiểm thì nguy cơ nhiễm khuẩn phức tạp càng cao. Trường hợp ông Đ. là một trong những ca khó: vừa nhiễm trùng huyết do vi khuẩn đa kháng, vừa viêm phổi, vừa rò mật, lại đang trong giai đoạn dùng thuốc ức chế miễn dịch. Nếu không được điều trị kịp thời và đúng phác đồ, khả năng tái nhiễm hoặc biến chứng nặng là rất cao”.
Việc cứu sống bệnh nhân Đ. không chỉ là thành công của y học can thiệp hiện đại, mà còn là minh chứng rõ rệt cho vai trò của các bệnh viện chuyên khoa truyền nhiễm trong điều trị biến chứng hậu ghép tạng - lĩnh vực đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa chẩn đoán vi sinh, hồi sức tích cực và điều trị đa chuyên khoa.
“Sau hơn 70 ngày kể từ ca ghép gan, đến nay bệnh nhân mới thực sự bước vào giai đoạn ổn định. Đó là kết quả của cả một quá trình bền bỉ, phối hợp chặt chẽ giữa người bệnh, bác sĩ điều trị, vi sinh, hồi sức, và các chuyên ngành liên quan”, ThS. Đặng Văn Dương chia sẻ.
Sau hơn hai tháng nằm viện, những bước đi đầu tiên của ông Đ. khi rời khỏi phòng bệnh là minh chứng cho sức mạnh của ý chí con người và nỗ lực của y học hiện đại. Từ một bệnh nhân phải thở oxy, nguy cơ sốc nhiễm khuẩn, giờ ông đã có thể tự đi lại, nói chuyện và ăn uống bình thường.
Trên hành trình vượt qua bệnh tật, điều kì diệu không chỉ đến từ kĩ thuật y khoa tiên tiến, mà còn từ tinh thần không buông xuôi của bệnh nhân và sự kiên trì của đội ngũ y bác sĩ. “Mỗi ngày thấy bệnh nhân thở đều, ăn được bát cháo, cười nhẹ – đó là niềm vui lớn nhất của chúng tôi” một điều dưỡng tham gia chăm sóc chia sẻ.
Cuộc chiến với bệnh tật của ông Đ. khép lại bằng một chiến thắng đầy nhân văn, đó là chiến thắng của tri thức, của lòng kiên định và sự tận tâm trong hành trình giành lại sự sống cho người bệnh sau ghép tạng.