Ngay sau khi thành lập ngày 2/9/1945, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải đối mặt với tình thế "ngàn cân treo sợi tóc". Kinh tế kiệt quệ, kho bạc chỉ còn 1,2 triệu đồng Đông Dương vẫn nằm trong tay tư bản Pháp. Quân đội Tưởng Giới Thạch mang tiền "quan kim" và "quốc tệ" sang tiêu gây rối loạn thị trường. Ngập lụt ở nhiều nơi, nạn đói hoành hành.
"Có nhiều hôm tôi thức dậy buổi sáng, mở cửa nhà ra thấy xe bò chở đầy xác người chết đói đi qua", đại tá Nguyễn Trọng Hàm (nguyên Phó tham mưu trưởng Quân khu Thủ đô) nhớ lại.
Việt Nam tuy giành được độc lập nhưng chưa nước nào công nhận. Từ vĩ tuyến 16 trở ra, gần 200.000 quân Tưởng lũ lượt kéo vào miền Bắc và câu kết với các đảng phái phản động Việt Quốc, Việt Cách cướp phá, bắn giết nhân dân. Ở Miền Nam, hơn 100.000 quân Anh mượn danh vào tước vũ khí Nhật, nhưng thực chất mở đường cho thực dân Pháp trở lại cướp Việt Nam một lần nữa. Trong khi đó lực lượng vũ trang của nhà nước non trẻ mới được xây dựng, còn rất nhỏ bé.
Ngày 23/9/1945, được quân Anh yểm trợ, Pháp nổ súng tấn công Sài Gòn và một số nơi ở Nam Bộ, chính thức xâm lược Việt Nam lần thứ hai. Khoảng 600.000 quân Nhật tuy chờ lệnh giải giáp nhưng một số đã dọn đường cho quân Pháp mở rộng vùng chiếm đóng ở miền Nam.
Cuối tháng 11/1946, quân Pháp đánh ra Bắc, chiếm Hải Phòng, thị xã Lạng Sơn và Đà Nẵng. Tại Hà Nội, ngày 17/12, chúng phá các công sự của quân dân thủ đô ở phố Hàng Bún - Yên Ninh, gây đổ máu ở khu vực cầu Long Biên, Cửa Đông. Một ngày sau, tướng Louis Morlière gửi cho Chính phủ Việt Nam tối hậu thư đòi chiếm đóng Sở Tài chính, giải tán lực lượng tự vệ, bàn giao quyền kiểm soát an ninh ở Hà Nội.
Nếu các yêu cầu trên không được thực hiện, chậm nhất sáng 20/12/1946, quân Pháp sẽ hành động.
Đại tá Nguyễn Trọng Hàm. Ảnh: Võ Hải.
Bước chuẩn bị cuộc kháng chiến trường kỳ
Xác định "không sớm thì muộn Pháp sẽ đánh mình và mình cũng nhất định phải đánh Pháp", Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị Toàn dân kháng chiến, nhấn mạnh đường lối kháng chiến là toàn dân, toàn diện, lâu dài và tự lực cánh sinh. Cả nước chia thành 12 chiến khu, trong đó Hà Nội là chiến khu 11. Khu ủy, Ủy ban bảo vệ, Ban chỉ huy Mặt trận Hà Nội được thành lập.
Đầu tháng 12/1946, các kho tàng, xí nghiệp, cơ sở sản xuất vũ khí ở Hà Nội được chuyển về nông thôn, rừng núi, đề phòng chiến sự lan rộng. Các cơ quan Trung ương Đảng, Chính phủ, Quốc hội, Mặt trận, Bộ Tổng chỉ huy di chuyển lên An toàn khu Việt Bắc. Hà Nội biến thành trận địa, lực lượng vũ trang gồm 5 tiểu đoàn Vệ quốc đoàn, 4 trung đội pháo binh và Tự vệ chiến đấu ở thành Hoàng Diệu, Tự vệ thành đào hào, đục tường thông nhà nọ sang nhà kia, đắp ụ chiến đấu.
Ngày 18-19/12/1946, tại làng Vạn Phúc (Hà Đông), Thường vụ Trung ương Đảng họp, quyết định phát động cuộc kháng chiến toàn quốc. Ngày 19/12, trên căn gác xép của ngôi nhà ở làng Vạn Phúc, Hồ Chủ tịch đã viết Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến và một ngày sau Đài tiếng nói Việt Nam phát đi.
"Hỡi đồng bào toàn quốc? Chúng ta muốn hoà bình. Chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng thực dân Pháp càng lấn tới vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ", Hồ Chủ tịch viết.
Kêu gọi "bất kỳ đàn ông đàn bà không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, bất kỳ người già, người trẻ, hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc", Hồ Chủ tịch khẳng định: "Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước. Nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, dù phải gian lao kháng chiến, thắng lợi nhất định về dân tộc ta!".
Đúng 20h03 ngày 19/12/1946, tiếng súng từ pháo đài Láng phát ra báo hiệu cuộc kháng chiến toàn quốc bắt đầu.
Từng tham gia ê kíp chiến đấu tại pháo đài Láng đêm 19/12, cụ Đỗ Văn Đa nhớ lại: “Khoảng 20h, đèn điện trong thành phố vụt tắt, pháo hiệu được bắn lên. Trung đội trưởng hô: Bắn. 6 viên đạn từ 2 khẩu pháo nã vào nội thành. Lúc này trận địa pháo từ nhiều hướng cùng quân dân trong thành đồng loạt nổ súng. Đứng từ trận địa pháo, nhìn vào thành phố chỉ thấy đỏ rực một góc trời”.
Trận địa Pháo Đài Láng, nơi nổ phát súng đầu tiên mở màn cho 60 ngày đêm giam chân địch trong lòng Hà Nội. Ảnh: Võ Hải.
Phát đạn pháo mở màn cho 60 ngày đêm quân và dân Hà Nội chiến đấu với mục đích giam chân quân Pháp trong thành phố, tạo điều kiện cho Trung ương có đủ thời gian rút lên chiến khu an toàn, giúp cả nước chủ động chuẩn bị bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ 9 năm chống Pháp.