Tỉ mẩn lật lại cuốn sổ biên việc 25 năm trước.
Tháng 3 ta mà trời oi. Dỉn nhiều vô kể. Vừa để ý đập dỉn vừa ngồi chuyện với ông Vương Quỳnh Sơn cùng Bí thư Sà Phìn Vàng Sùng Chờ và chủ tịch Ly Sủng Páo. Trụ sở Đảng ủy, Ủy ban và Hội đồng nhân dân xã Sà Phìn đóng ngay tại nhà Vương.
Còn tới hơn 40 hộ thuộc diện đói. Khái niệm đói ở đây là nhà không còn ngô phải đi làm thuê hoặc vụ vừa rồi chỉ gieo được 1-2 ki-lô-gam giống.
Chủ tịch Páo phàn nàn cái hướng ra cho số lao động có độ tuổi 17-40 chiếm tới 40 phần trăm trong số 2.163 khẩu người Sà Phìn khó quá đi. Nhà nước vận động không hút thuốc phiện rồi nhưng lấy cây gì thay thế đây? Một dạo rộ lên mận tam hoa, cây cải dầu. Dân tích cực lắm nhưng trồng rồi không có đầu ra. Nhà nước không mua. Trông vào trợ cấp đặc biệt. Đói nhiều. Quanh đi quẩn lại, lại trông chờ vào cây ngô thôi. Xứ Đồng Văn này chỉ có đá. Một tí đất trong hốc đá ngô cũng trổ được bắp. Lao động dôi dư, đất ít, việc ít. Trong số 40 hộ đói có tới 15 phần trăm có 6-7 con. 30% không có đất canh tác. Mấy trăm triệu trợ cấp theo 135 xoá đói giảm nghèo chỉ cho họ cầm chừng nhỏ giọt.
Bí thư Vàng Sủng Chờ tặc lưỡi hít hà tiếc cho 20 em học cấp II của xã này đã và đang phải bỏ học. Vì sao vậy ? Anh Chờ chép miệng : Vì đói quá mà . Các cháu học rất sáng dạ nhưng vào cấp II phải đi bộ về huyện lỵ Đồng Văn 20 cây số để trọ . Bình quân phải trên 200.000 đồng một cháu một tháng. Tiền trọ nằm ở nhà khách Uỷ ban, thôi thì cũng được, nhưng phải mất 30.000 đồng. Còn tiền ăn cốt no bụng lửng dạ cũng phải 180.000 một tháng.
Tôi ngước lên vách gỗ tỉ mẩn đếm được cả thảy 53 cái bằng khen, giấy khen các thành tích của xã. Anh Páo khoe nếu treo hết phải bảy, tám chục chiếc.
Lược ghi từ băng ghi âm:
- Bao nhiêu lứa tuổi 20 -25 tuổi tự nguyện tham gia các lễ hội dân tộc? Mỗi năm người Mông có bao nhiêu lễ hội?
Hầu như không có. Cái này phải hỏi lại.
- Lớp thanh niên nói được tiếng Mông hiểu được văn hóa Mông bây giờ thế nào? Ở trường một tuần học bao nhiêu tiết tiếng Mông?
Nói bình thường thì được, nhưng nói về sâu xa, phong tục tập quán thì không. Trường nội trú có dạy chữ Mông.
-Đám cưới của thanh niên Mông thế nào?
Đám cưới giờ cũng thay đổi nhiều lắm. Cũng có bữa ăn uống mời khách. Lễ thì vẫn giữ như cũ, nhưng bỏ một số công đoạn. Đám cưới xưa từ ăn hỏi đến lúc cưới kéo dài một năm.
- Người Mông có ở rể?
Người Mông ít khi ở rể. Ở rể khi ông bố không có con trai và phải được anh em họ hàng bên nhà gái đồng ý. Bố mẹ đồng ý nhưng anh em không đồng ý cũng không được.
- Nhà này làm hết bao nhiêu ( hai tầng đâu 5 phòng và một phòng khách bếp, ga ra)? Vật liệu xây dựng lên đây bao nhiêu?
Nhà làm hết gần 2 tỷ. Ở đây nhân công đắt, rồi vật liệu xây dựng toàn bộ vận chuyển từ dưới Hà Giang lên hết. Giá vật liệu như xi măng ở Hà Giang tính % cước lên trên đây và chủ nhân phải chịu hoàn toàn, đội giá lên gần đến 5 lần. Chẳng hạn như cát bán tại bãi thị xã, thành phố 100 - 120.000 đồng/m3 là đắt nhất, lên đây 600.000/m3.
Trước đây dân còn được khai thác đá. Từ 2010 UNESCO công nhận là công viên địa chất toàn cầu thì bị cấm khai thác. Chính quyền quy định cho một xã hoặc 2-3 xã điểm khai thác đá và phải được huyện, tỉnh cho phép khai thác thì mới được khai thác, đương nhiên phải nộp thuế đầy đủ.
- Từ khi được UNESCO công nhận di sản cao nguyên đá dân được gì và mất gì?
Khi công nhận là công viên địa chất, người dân muốn lấy hòn đá xây nhà phải xin phép, chịu phí, không thể tùy tiện.
Trước năm 2010, một khối đá chỉ 100 nghìn, anh thích đá chỗ nào thì nó đập cho anh, còn hiện tại thì 600 nghìn đồng/khối. Hầu như các cơ sở nhà hàng, khách sạn đều dùng vật liệu xây dựng dưới xuôi.
Hiện đang có nhiều lao động Mông sang Trung Quốc đi làm việc. Đi “chui”, người này bày cho người người kia, mình cấm không được vì liên quan đến cuộc sống của người ta. Anh giữ lại thì phải có công ăn việc làm cho người ta, không thì người ta đi vì đồng tiền miếng cơm, manh áo lo cho vợ con.
Những vấn đề dân kiến nghị chính quyền hiện nay?
Dân thì không có gì kiến nghị ngoài việc tiếp tục… kiến nghị Đảng, Nhà nước quan tâm! Trước, người dân có điều kiện muốn làm cái nhà cái cửa thì cứ làm, bây giờ có điều kiện cũng khó làm vì vướng cái Di sản. Thủ tục xin phép, giá vật liệu ngất ngưởng, nên khó khăn hơn. Từ hồi có di sản, cái được thấy là người từ các nơi đổ về, xe to xe bé người dân chỉ nhìn. Vì tiền của khách thì đổ vào các cơ sở nhà hàng, khách sạn. Điều kiện kinh tế của người dân vùng cao nguyên đá hạn chế nên rất khó để mở các dịch vụ phục vụ du khách.
- Tỉ lệ nhà người Mông được xây mới kiên cố hoá bao nhiêu %?
Bây giờ tính tỉ lệ thì chỉ có 30% có thể xây được nhà,còn 70% muốn xây thì không xây nổi vì giá vật liệu, thủ tục giấy tờ. Đây là điều trăn trở nhất của người dân và chính quyền cơ sở.
Giá vật liệu như xi măng ở Hà Giang tính % cước lên trên đây và chủ nhân phải chịu hoàn toàn, đội giá lên gần đến 5 lần. Chẳng hạn như cát bán tại bãi thị xã, thành phố 100 - 120.000 đồng/m3 là đắt nhất, lên đây 600.000/m3.
(Còn nữa)