Bao Tien Phong

ĐI NHIỀU, VIẾT KHỎE Ông kể: “Năm 1968, tôi đi theo bộ đội chủ lực Sài Gòn viết một số bài bút ký, trong đó có bài Thư Tân Sơn Nhứt. Trong bài ký này tôi nhắc tới hình ảnh anh giải phóng quân bị giặc bắn chết nhưng vẫn đứng tựa bên xác trực thăng và chĩa súng về phía giặc. Kẻ thù thấy súng chĩa vào thì sợ, lùi lại. Chúng không biết rằng anh giải phóng quân đã hi sinh. Sau khi bài ký ra đời, tôi gặp nhà thơ Lê Anh Xuân. Lê Anh Xuân cảm ơn tôi vì đọc bài ký của tôi anh xúc động với hình ảnh anh giải phóng quân nên đã làm bài thơ Dáng đứng Việt Nam. Ai ngờ lần gặp nhau ấy cũng là lần cuối cùng, Lê Anh Xuân lại lao vào chiến trường, bị địch bắn chết ở Cần Đước, Long An”. Từ năm 1963 đến năm 1970, nhà thơ Hoài Vũ là phóng viên chiến trường. Ông nhớ lại: “Vào năm 1963, lúc đó cuộc kháng chiến chống Mỹ diễn ra quyết liệt ở miền Nam, tôi đang công tác ở Ban Văn nghệ Báo chí, Trường Tuyên giáo Trung ương (Hà Nội) thì nhà trường cử đi Nam. Sau khi lên Hoà Bình tập mang vác, tôi đi Trường Sơn ngay, ròng rã suốt 4 tháng trời. Lúc bấy giờ Trường Sơn chưa có đường. Trung ương Cục miền Nam khi đó đóng ở Tây Ninh, tôi được phân công làm phóng viên Báo Nhân Dân, tờ báo của Cơ quan Trung ương Cục miền Nam. Đó là những năm tháng chiến trường ác liệt. Tôi đi nhiều nơi lắm, đi các chiến dịch như Bình Giã, Đồng Xoài rồi chiến dịch Mậu Thân”. Đi nhiều và viết khỏe, trong 7 năm Hoài Vũ viết hàng trăm bài báo, trong đó có không ít ký sự, phóng sự giá trị, Ông từng viết về đội du kích Lương Hoà ở Long An. Khi đất nước im tiếng súng, các đối tượng trực tiếp tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước được hưởng chính sách của Đảng và Nhà nước, người trong đội du kích Lương Hoà năm xưa đã đến tìm tác giả để xin bài báo bổ sung vào hồ sơ xét duyệt chính sách của họ. Trong chiến tranh, mỗi bài báo có khi phải trả bằng tính mạng. Nhiều lần tính mạng của Hoài Vũ “ngàn cân treo sợi tóc”. Ông kể: “Một lần, khoảng 3, 4 giờ sáng tôi đi công tác qua cánh đồng thấy mấy đống rơm chất cao cứ nghĩ là mùa gặt nên lắm rơm rạ. Ai ngờ vừa bước qua đó thì đạn từ chiếc xe tăng trong đống rơm bắn tơi tả. Tôi chạy vô ấp chiến lược được người dân chăm sóc, chở che”. Hoài Vũ kể tiếp: “Tôi theo bộ đội đi hành quân qua lòng tràm, nước ngập ngang bụng. Sáng ra, giơ 2 chân lên thấy tróc hết cả, giao liên thương quá đã chăm sóc tôi. Có một cô giao liên tên Lan thường bắt cá, bắt tôm nấu cho tôi ăn. Một thời gian sau, trở về từ Sài Gòn, tôi mua tặng cô giao liên mấy chai dầu thơm làm quà. Đến nơi không thấy Lan đâu, tôi hỏi thăm mọi người, mới hay Lan đã hi sinh ngay bữa đưa tôi ra sông, khi trở về cô bị trực thăng bắn, chết dưới gốc tràm. Tôi rụng rời, hỏi thăm nơi Lan nằm. Lan được chôn ngay dưới gốc tràm. Ra gốc tràm thấy nắm đất lạnh lẽo, phủ đầy lá tràm rụng vàng, tôi lấy dầu thơm rưới lên mộ Lan, cầu mong Lan ra đi thanh thản. Bài thơ Đi trong hương tràm (1968) của tôi ra đời như thế: Gió Tháp Mười đã thổi, thổi rất sâu/Có nỗi thương đau có niềm hi vọng/Bầu trời thì cao, cánh đồng thì rộng/Hương tràm bên anh, mà em đi đâu? Tôi cũng đã viết một bài ký có tên Đồng bằng đỏ lửa, đăng trên báo Nhân Dân”. Nhiều đồng nghiệp của nhà báo, nhà thơ Hoài Vũ đã ra đi trong cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, có những người đã nằm xuống trước thềm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước chỉ vài tiếng đồng hồ. MỘT THỜI KHÔNG MÀNG SỐNG, CHẾT Phóng viên thời bom đạn làm việc trong điều kiện thiếu thốn, khắc nghiệt. Theo Hoài Vũ, hồi ấy không có điện thoại để liên lạc hay ghi âm, chỉ có sổ tay và cây bút, phóng viên luôn được trang bị vũ khí như lựu đạn hoặc cây súng carbine để phòng thân: “Bất kể lúc nào có điều kiện yên ả là chúng tôi viết, thường xuyên viết trên miệng hầm. Chúng tôi thường viết 2 bản, một bản gửi giao liên làm nhiệm vụ chuyển thư từ, một bản để trong túi đề phòng bất trắc xảy ra trong quá trình vận chuyển thì vẫn còn giữ được bài báo”. Điều gì đã giúp Hoài Vũ viết báo, viết văn say mê trong mưa bom bão đạn? Ông cười, đáp: “Sức sống phơi phới của tuổi trẻ, tình yêu nước, lòng căm thù giặc mạnh mẽ đã giúp tôi vượt qua. Tôi không nghĩ đến sống/chết nên là một trong những người viết lăn xả nhiều nhất trên chiến trường, may là vẫn sống đến bây giờ”. q của nhà thơ Hoài Vũ Năm 1973, nhà báo, nhà thơ Hoài Vũ làm Báo Văn nghệ Giải phóng Miền Nam, báo được in trong rừng. Sau giải phóng, ông làm Tổng biên tập Báo Văn nghệ Giải phóng. Đó là thời kỳ huy hoàng của báo in với số lượng 100 ngàn bản/số, phát hành khắp trong Nam ngoài Bắc. NHÀ THƠ, CHIẾN SĨ LÊ ANH XUÂN ĐỂ LẠI CHO ĐỜI DÁNG ĐỨNG VIỆT NAM SỐNG MÃI VỚI THỜI GIAN. NGƯỜI TẠO CẢM HỨNG GIÚP LÊ ANH XUÂN VIẾT DÁNG ĐỨNG VIỆT NAM LÀ NHÀ THƠ, NHÀ BÁO HOÀI VŨ. Ở TUỔI 89, ÔNG NÓI: “TÔI PHẢI CẢM ƠN NHỮNG NĂM THÁNG LÀ PHÓNG VIÊN CHIẾN TRƯỜNG, MÌNH VỚI NHÂN DÂN LÀ MỘT, CUỘC SỐNG THỰC ĐẦY ẮP, CHO TÔI NHIỀU CẢM XÚC. NHỮNG BÀI THƠ NHƯ VÀM CỎ ĐÔNG, ANH Ở ĐẦU SÔNG EM CUỐI SÔNG, ĐI TRONG HƯƠNG TRÀM… ĐƯỢC RA ĐỜI TỪ NHỮNG CHUYẾN ĐI LÀM BÁO CỦA TÔI”. Những phóng sự, ký sự thời chiến của Hoài Vũ được ông xác nhận: Không bịa đặt, không thêm bớt. Nhà báo, nhà thơ nổi tiếng khiêm tốn đánh giá: “Tài của tôi có hạn, gom được bao nhiêu thì quý bấy nhiêu nhưng so với cuộc sống thì vẫn còn khoảng cách xa lắm”. NÔNG HỒNG DIỆU thời chiến Nhà thơ Hoài Vũ và đạo diễn Nguyễn Hoàng Nhà thơ Hoài Vũ (thứ 3 từ trái qua) trong chuyến về thăm Long An Ký ức làm báo www.tienphong.vn 30

RkJQdWJsaXNoZXIy MjM5MTU3OQ==