Lịch sử Việt Nam là bản anh hùng ca bất tận về những cuộc đấu tranh kiên cường bảo vệ độc lập dân tộc và dựng xây đất nước. Trong suốt chiều dài ấy, hào khí dân tộc chính là ngọn lửa bất diệt, hun đúc ý chí độc lập, tự cường và làm nên bản lĩnh Việt Nam qua mọi thời đại. Từ thuở Vua Hùng dựng nước, bách tính con dân nước Việt đã hun đúc và đắp bồi cho một khí chất Việt, tinh thần Việt, bản lĩnh Việt xuyên suốt mấy ngàn năm lịch sử. Mấy ngàn năm ấy từng ghi dấu những cuộc khởi nghĩa hào hùng của Hai Bà Trưng, Bà Triệu; những chiến thắng lẫy lừng của các triều đại Đinh, Lý, Trần, Lê mà ở đó chói sáng một hào khí Đông A bất diệt. Một Quang Trung đại phá quân Thanh, bảo vệ vững chắc non sông gấm vóc. Mỗi thắng lợi là một minh chứng hùng hồn cho sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cho bản lĩnh Việt Nam không khuất phục trước bất kỳ thế lực nào. Bước sang thế kỷ XX, hào khí dân tộc được tiếp nối và nâng tầm thành sức mạnh thời đại. Dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn dân tộc vùng lên Tổng khởi nghĩa Tháng Tám thành công, khẳng định vị thế Việt Nam là nước độc lập. Đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Cuộc Tổng tấn công và nổi dậy làm nên Đại thắng mùa Xuân 1975 kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến trường kì chống Mỹ cứu nước, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên thống nhất và độc lập. Đại thắng 30/4/1975 không chỉ là dấu mốc lịch sử của hòa bình và thống nhất, mà còn là biểu tượng của bản lĩnh và trí tuệ, sức mạnh của ý chí kiên cường, dám chấp nhận thử thách và biết cách chiến thắng. Tinh thần và khí thế của Đại thắng mùa Xuân 1975 đã trở thành động lực to lớn, đưa đất nước bước vào công cuộc Đổi mới năm 1986, mở ra hành trình hội nhập sâu rộng, phát triển bền vững trong thế kỷ XXI. Hào khí Việt Nam là phẩm chất được trao truyền từ thời đại này sang thời đại khác. Đó là mạch nguồn xuyên suốt chưa bao giờ đứt gãy, là khí chất Việt ngày càng được vun bồi tỏa rạng. Ngày nay, khi đất nước vươn mình trên con đường hội nhập, hào khí Việt Nam lại lan tỏa, truyền cảm hứng mạnh mẽ cho thế hệ hôm nay. Hào khí đó vừa là thế năng, vừa là động năng tạo nên sức mạnh cộng hưởng của cả dân tộc bước vào thời đại vươn mình "sánh vai với các cường quốc năm châu” như Bác Hồ hằng mong muốn. Mong ước ấy đặt trên vai thế hệ trẻ hôm nay trách nhiệm, vinh dự to lớn. Một thế hệ trẻ bản lĩnh, tâm trong, trí sáng, hoài bão lớn, vững vàng trước những thách thức thời đại. Tinh thần 30/4 hôm nay không chỉ là ký ức, mà là năng lượng tích cực, là khát vọng cống hiến. Nó thôi thúc mỗi con dân Việt, triệu người như một vượt qua khó khăn, quyết tâm xây dựng đất nước hùng cường, phồn vinh và phát triển bền vững trong Kỷ nguyên mới, vun bồi Hào khí Việt Nam trong thời đại mới, thời đại Hồ Chí Minh. TIỀN PHONG n Töíng Biïn têåp: PHUÂNG CÖNG SÛÚÃNG n Phoá Töíng Biïn têåp: LÏ MINH TOAÃN n Töí chûác, biïn têåp: NGUYÏÎN MINH TUÊËN n Thiïët kïë: SAM SAM n Toâa soaån: 15 HÖÌ XUÊN HÛÚNG - HAÂ NÖÅI. Tel: (024) 39434031 n Phaát haânh: Haâ Nöåi: 0908988666 (Nguyễn Hằng) Fax: (024) 39430693; TP Höì Chñ Minh: (028) 3469860; Fax: (028) 38480015 n Chïë baãn taåi BAN TKTS BAÁO IN TIÏÌN PHONG n In taåi CTY TNHH MÖÅT THAÂNH VIÏN IN QUÊN ÀÖÅI 1 HAÂ NÖÅI BAÁO GIÁ: 65.000 ĐỒNG KHÁT VỌNG HÙNG CƯỜNG 04 NGỌC NỮ KHOA HỌC 31 64 48 TIẾN VỀ DINH ĐỘC LẬP NGÀY 30/4 LỊCH SỬ 14 KHÚC KHẢI HOÀN ĐỊA ĐẠO - KÝ ỨC PHÂN MẢNH VÀ TRUNG THỰC 5 16 19 23 13 10 Vươn ra biển lớn Tăng trưởng 2 con số, cách nào? Hồn dân tộc giữa biển trời Tổ quốc Lời người bên sông còn mãi... Chuyện một hàng binh Tái bản Ván bài lật ngửa, Biệt động Sài Gòn 26 21 30 36 33 29 Hiệp định Paris bước ngoặt lịch sử Rưng rưng ngày trở về Như có Bác trong ngày thống nhất Cây vĩ cầm đưa hồn Việt ra thế giới Chuyện kể ở ABYEI Nhà khoa học nữ gốc Việt bay vào vũ trụ 51 37 40 Gặp lại thần đồng toán học Lê Bá Khánh Trình Ngoại và tháng Tư Dòng sông chảy mãi Định vị sức mạnh Việt Nam Cổ phục xuống phố 50 20 27 41 54 Dự cảm về ngày thống nhất Bộ sưu tập của “người điên” Phía sau hào quang sân khấu Đánh thức sông nước bằng lễ hội Hương sấu ru mộng bình yên MỤC TIÊU 355KM METRO TẠI TPHCM: Thách thức và kỳ vọng 58 57 60 62 Thành phố điện ảnh bản sắc Việt Cất cánh cùng sân bay Long Thành Đừng dại mà đến Hà Giang Hành trình tri ân NHẬT KÝ TRONG TÙ BÎNG TIẾNG CZECH TRONG SỐ NÀY HÀO KHÍ VIỆT NAM Thiết kế bìa: Công ty cổ phần Emera - Nguyễn Đình Đề NGÀY GIẢI PHÓNG MIỀN NAM THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC 46 08 53 44
4 www.tienphong.vn KHAI PHÓNG TIỀM NĂNG Trong những ngày tháng Tư lịch sử này, trăm triệu người Việt Nam vừa hòa chung niềm vui thống nhất (30/4/1975- 30/4/2025), vừa bừng lên niềm tin và khát vọng trước những chuyển động mạnh mẽ của đất nước trước thềm kỷ nguyên mới”. Thời điểm bắt đầu kỷ nguyên mới được Tổng Bí thư Tô Lâm nêu là Đại hội XIV của Đảng. Từ đây, trăm triệu người dân Việt như một, dưới sự lãnh đạo của Đảng, chung sức đồng lòng, tranh thủ tối đa thời cơ, thuận lợi, đẩy lùi nguy cơ, thách thức, đưa đất nước phát triển toàn diện, mạnh mẽ, bứt phá và cất cánh. Ưu tiên hàng đầu trong kỷ nguyên mới là thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược, đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045 trở thành nước XHCN phát triển, có thu nhập cao. Nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng lý luận Trung ương Phùng Hữu Phú cho rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam đã thực hiện thắng lợi các yêu cầu lịch sử, đổi mới thành công, vượt thoát khỏi tình trạng một nước nghèo, kém phát triển, đạt được những thành tựu to lớn. Chính những thành tựu đó đã tạo tiền đề, nền tảng vững chắc để Việt Nam bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Theo ông Phú, kỷ nguyên mới đòi hỏi phải tạo chuyển biến căn bản về nhận thức, hành động của toàn Đảng, toàn xã hội trong việc giữ gìn, nuôi dưỡng, sử dụng hiệu quả nhất các nguồn lực của đất nước. Nhìn lại 40 năm Đổi mới, ông Nguyễn Túc, Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đánh giá, đổi mới có ý nghĩa nhất của Đại hội VI chính là đổi mới tư duy, xóa bỏ kinh tế tập trung quan liêu bao cấp trong sản xuất nông nghiệp, giúp khai phóng đất đai, khai mở sức lao động và sáng tạo của người dân. Kết quả, chỉ sau hơn một năm sau khi Nghị quyết khoán 10 trong nông nghiệp được thực hiện, Việt Nam từ một nước thiếu ăn đã dư thừa lương thực, xuất khẩu ra nước ngoài hàng triệu tấn. “Đổi mới quan trọng nhất trong kỷ nguyên mới chính là đổi mới tư duy và đổi mới trong hành động để khai mở các tiềm năng phát triển mới”, ông Túc nói. TƯ DUY MỚI, HÀNH ĐỘNG MỚI Theo ông Nguyễn Túc, công cuộc cải cách mà Đảng đang thực hiện thời gian qua nhận được sự đồng tình, ủng hộ của người dân, nhất là việc tinh gọn tổ chức bộ máy. Tình trạng cồng kềnh, nhiều tầng nấc, ôm đồm, phân công chưa rõ ràng, phân cấp, phân quyền chưa đủ mạnh trong bộ máy nhà nước đã được đề cập từ lâu. Đảng cũng đã có nhiều nghị quyết “nhìn thẳng” vào những hạn chế, yếu kém của bộ máy, nhưng do thiếu sự đột phá trong hành động, dẫn đến quá trình triển khai chưa đạt kết quả như mong muốn. Hệ lụy là tổ chức bộ máy không chỉ gây tốn kém, gánh nặng ngân sách, mà còn thiếu hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả. Trước thực trạng này, từ tháng 9 năm 2024, sau Hội nghị Trung ương lần thứ 10, với tư duy và hành động mới, Đảng đã xác định, cách mạng tổ chức bộ máy phải được thực hiện theo phương châm “vừa chạy vừa xếp hàng”, “không thể chậm trễ”. Tổng Bí thư Tô Lâm phát biểu tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc tổng kết thực hiện Nghị quyết số 18 nhấn mạnh: “Thời gian không chờ đợi chúng ta. Đất nước đang đứng trước cánh cửa lịch sử bước vào kỷ nguyên vươn mình. Những công việc chúng ta làm hôm nay, sẽ quyết định tương lai. Chậm trễ là có lỗi với nhân dân”. Ông Nguyễn Đức Hà, nguyên Vụ trưởng Vụ cơ sở Đảng, Ban Tổ chức Trung ương cho biết, cải cách bộ máy là vấn đề được Đảng quan tâm từ lâu nay, nhưng cách thức thực hiện thì chưa quyết liệt, còn nể nang, hiệu quả chưa cao. Thành thử, có thời kỳ đưa ra yêu cầu về tinh giản biên chế nhưng biên chế vẫn cứ phình ra. Trong cuộc cách mạng tổ chức bộ máy lần này, Đảng không chỉ đổi mới về tư duy mà còn cả đổi mới cách thức thực hiện. Trung ương gương mẫu làm trước, các địa phương làm theo. Đánh giá về những kết quả bước đầu, ông Nguyễn Viết Chức, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội (Ủy ban Văn hóa và Xã hội) khẳng định: “Những cải cách mang tính cách mạng về bộ máy mà Đảng đang thực hiện dưới sự chỉ đạo quyết liệt của Tổng Bí thư Tô Lâm chắc chắn sẽ tạo nên bước ngoặt lớn cho sự phát triển đất nước”. Đặc biệt, với sự đồng thuận cao của người dân cho thấy, một khi chủ trương chính sách lớn của Đảng được nhân dân ủng hộ thì sẽ nhanh chóng đi vào cuộc sống, tạo ra sức mạnh lớn mà không ai có thể chần chừ, chậm trễ trong thực hiện. GS. TS Hoàng Thế Liên, nguyên Thứ trưởng thường trực Bộ Tư pháp cho rằng, để dân tộc vươn mình trong kỷ nguyên mới, phải bứt phá quyết liệt hơn trong thực hiện cải cách về thể chế, pháp luật, tổ chức bộ máy. “Thể chế, pháp luật cần được đổi mới, cải cách theo hướng tháo gỡ điểm nghẽn, khơi thông mọi nguồn lực, thức dậy các tiềm năng xã hội, khuyến khích sáng tạo, đón nhận cái mới”, ông Liên nói. n Tổng Bí thư Tô Lâm, Chủ tịch nước Lương Cường, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn ẢNH: LÂM KHÁNH VĂN KIÊN KHÁT VỌNG Đường lối đổi mới mang tính cách mạng về thể chế, tổ chức bộ máy, phát triển khoa học công nghệ, kinh tế tư nhân…, mà Đảng đang thực hiện đã thổi bùng lên niềm tin và khát vọng trong trăm triệu người dân về một Việt Nam hùng cường, thịnh vượng trong kỷ nguyên mới. “Thời gian không chờ đợi chúng ta. Đất nước đang đứng trước cánh cửa lịch sử bước vào kỷ nguyên vươn mình. Những công việc chúng ta làm hôm nay, sẽ quyết định tương lai. Chậm trễ là có lỗi với nhân dân”. TỔNG BÍ THƯ TÔ LÂM “Chúng ta đang sống trong thời khắc lịch sử, chứng kiến sự phát triển chưa từng có của khoa học công nghệ và môi trường quốc tế đầy biến động, vừa hợp tác vừa đấu tranh, nơi mà cơ hội và thách thức luôn song hành. Nhưng với bản lĩnh kiên cường, với ý chí quyết tâm và khát vọng cháy bỏng, Việt Nam hoàn toàn có thể làm nên kỳ tích mới trong phát triển kinh tế - xã hội! Một nền kinh tế vững mạnh đang hình thành, một thế hệ doanh nhân Việt Nam bản lĩnh và đổi mới, sáng tạo, tràn đầy nhiệt huyết kinh doanh và lòng yêu nước, đang viết tiếp câu chuyện thành công, và một tương lai rực rỡ, một nước Việt Nam XHCN sánh vai cùng các cường quốc năm châu như mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đang dần trở thành hiện thực trong tương lai gần”. (TRÍCH BÀI VIẾT CỦA TỔNG BÍ THƯ TÔ LÂM: PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN - ĐÒN BẨY CHO MỘT VIỆT NAM THỊNH VƯỢNG) HÙNG CƯỜNG HÀO KHÍ VIỆT NAM
www.tienphong.vn 5 HÀO KHÍ VIỆT NAM TIỀM NĂNG LỚN Nghị quyết số 36 của Ban Chấp hành Trung ương về chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 nhấn mạnh mục tiêu: Đưa Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh. Trong đó, mục tiêu cụ thể, đến năm 2030, các ngành kinh tế thuần biển đóng góp khoảng 10% GDP cả nước; kinh tế của 28 tỉnh, thành phố ven biển ước đạt 65 - 70% GDP cả nước. Các ngành kinh tế biển phát triển bền vững theo các chuẩn mực quốc tế; kiểm soát khai thác tài nguyên biển trong khả năng phục hồi hệ sinh thái biển. Tuy vậy, theo PGS.TS Nguyễn Chu Hồi, đại biểu Quốc hội, Phó Chủ tịch thường trực Hội Nghề cá Việt Nam, dù tiềm năng vô cùng to lớn, nhưng đóng góp của kinh tế biển cho kinh tế quốc dân chưa tương xứng, còn thiếu bền vững. Hàm lượng khoa học - công nghệ trong các sản phẩm biển còn ở mức khiêm tốn. Đầu tư cho chuyển đổi số, chuyển đổi xanh trong lĩnh vực kinh tế biển còn hạn chế. Khai thác, sử dụng biển còn thô sơ, quản lý biển chưa hiệu quả. Theo các chuyên gia, nguyên nhân cơ bản nhất dẫn tới tình trạng nói trên là mặc dù biển nước ta có lợi thế tĩnh do thiên nhiên ban tặng, nhưng chưa tạo ra được lợi thế động (cơ chế, chính sách) kịp thời, đủ mạnh và đồng bộ để giải phóng nguồn lực cho phát triển kinh tế biển. Bệnh “hội chứng” trong phát triển kinh tế biển vẫn còn đâu đó, như trong quy hoạch phát triển hệ thống cảng biển và các khu kinh tế biển, đảo… Hỗ trợ giữa các vùng lãnh thổ miền núi, ven biển và hải đảo chưa thực sự tối ưu hoá. Có thời kỳ địa phương nào cũng xin được làm cảng biển, tiêu tốn rất nhiều ngân sách mà không sử dụng hết công suất, dẫn đến lãng phí. Để phát triển kinh tế biển, năm 2024, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 139 về Quy hoạch không gian biển quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, trong đó nêu yêu cầu, tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng biển, chú trọng những lĩnh vực trọng điểm như cảng biển và giao thông kết nối cảng biển với nội địa, thông tin liên lạc biển, hạ tầng kinh tế số...; phát triển đồng bộ hệ thống đường hàng không, đường sắt, đường bộ, đường biển, đường thủy nội địa giữa địa phương có biển với địa phương không có biển và kết nối với các nước. Nghị quyết cũng yêu cầu phát triển nhanh hệ thống đô thị ven biển, đảo để tạo ra các trung tâm dịch vụ hậu cần kinh tế mạnh, thực sự trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội của mỗi vùng. KHÔNG GIAN MỚI, ĐỘNG LỰC MỚI Ông Trần Ngọc Chính, Chủ tịch Hội Quy hoạch và Phát triển đô thị Việt Nam cho rằng, trong bối cảnh cách mạng tinh gọn tổ chức bộ máy, việc nghiên cứu sáp nhập các tỉnh miền núi, đồng bằng với các tỉnh có biển là cơ hội để mở ra không gian phát triển mới, tạo sự tự chủ trong hoạt động xuất nhập khẩu qua đường biển cho các địa phương. Hưng Yên và Thái Bình hợp nhất với nhau, Hải Phòng kết hợp với Hải Dương sẽ tạo nên sức mạnh mới, đánh thức tiềm năng vốn có giữa vùng đồng bằng và vùng biển. Ông Nguyễn Tiến Dĩnh, nguyên Thứ trưởng Bộ Nội vụ cho rằng: Hiện nay, dư địa để các thành phố lớn phát triển nhanh và mạnh không còn nhiều, cần phải mở rộng không gian. Đặc biệt, việc sắp xếp các tỉnh Tây Nguyên với Quảng Ngãi, Phú Yên, Bình Định, Bình Thuận sẽ giúp mở rộng không gian lãnh thổ núi rừng về phía biển, tạo ra liên kết mới trong phát triển kinh tế, xã hội và văn hoá. Đồng thời sẽ thúc đẩy hạ tầng giao thông thông suốt, kết nối dễ dàng miền núi với đồng bằng ven biển và biển đảo; góp phần hoàn thiện hệ thống logistics, giúp thúc đẩy kinh tế phát triển hiệu quả và bền vững. TPHCM, với dân số gần 10 triệu người, trong khi diện tích chỉ có hơn 2.000 km2 sẽ rất khó để có thể giải quyết được các điểm nghẽn về hạ tầng, nhà ở, phát triển công nghệ cao… Khi TPHCM hợp nhất các tỉnh trong vùng kinh tế Đông Nam bộ như Bình Dương và Bà Rịa - Vũng Tàu, giúp giải quyết được các vấn đề ách tắc trong không gian phát triển ở khu vực đất liền, từ đó mở ra không gian phát triển rộng lớn từ phía biển. Tương tự, ông Chu Hồi cho rằng, việc mở rộng TP Hồ Chí Minh hướng biển sẽ giúp thành phố mở ra không gian phát triển mới, mở rộng dư địa, tạo xung lực mới cho các bứt phá chiến lược của một “đầu tàu kinh tế”, vươn mình ra khu vực và thế giới. “Cái áo chật chội” mà thành phố này đang khoác không còn thích hợp với “người khổng lồ” theo yêu cầu của kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Nhấn mạnh “trăm sông đổ về biển cả”, ông Chu Hồi cho rằng, sáp nhập tỉnh, thành có biển với các tỉnh đồng bằng và núi rừng là giải pháp đột phá, có tính bước ngoặt. Sắp xếp, kết nối các tỉnh, thành ven biển với các tỉnh đồng bằng, các tỉnh miền núi sẽ tạo ra hiệu ứng tương tác trong phát triển. Đây cũng chính là cuộc cách mạng tổ chức lại lãnh thổ quốc gia để phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững trong bối cảnh có sự can thiệp sâu rộng của công nghệ 4.0. Sáp nhập tỉnh, thành hướng biển sẽ tạo thuận lợi trong việc đánh thức tiềm năng của các vùng miền trong nội tỉnh, thành phố; tạo “thế và lực mới” cho các địa phương phát triển toàn diện, bền vững, gắn phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm an ninh, quốc phòng. n Mô hình “siêu” cảng Cần Giờ ở TPHCM Trong “thế kỷ của biển và đại dương”, kinh tế biển đã trở thành trọng điểm chiến lược phát triển của nhiều quốc gia trên thế giới. Vậy nên, định hướng nghiên cứu sáp nhập tỉnh, mở rộng không gian kết nối rừng, đồng bằng và biển sẽ mở ra không gian phát triển vô cùng to lớn cho các địa phương. VƯƠN RA BIỂN LỚN AN NHIÊN Việc sắp xếp các tỉnh đồng bằng, miền núi với các tỉnh có biển sẽ mở ra không gian phát triển mới "Sắp xếp, kết nối các tỉnh, thành ven biển với các tỉnh đồng bằng, các tỉnh miền núi sẽ tạo ra hiệu ứng tương tác trong phát triển, cả về khía cạnh kinh tế, xã hội, cả về văn hóa và các giá trị vùng miền. Đây cũng chính là cuộc cách mạng tổ chức lại lãnh thổ quốc gia để phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững trong bối cảnh có sự can thiệp sâu rộng của công nghệ 4.0”. PGS.TS NGUYỄN CHU HỒI, ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI, PHÓ CHỦ TỊCH THƯỜNG TRỰC HỘI NGHỀ CÁ VIỆT NAM
www.tienphong.vn Các chuyên gia cho rằng, cuộc điện đàm đó thể hiện sự chủ động và linh hoạt của Việt Nam khi xử lý các vấn đề thách thức trong môi trường đối ngoại và hội nhập. Tính chủ động và linh hoạt cũng đã góp phần làm nên thành công của nền ngoại giao Việt Nam trong suốt 50 năm qua, từ dấu mốc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. NHỮNG DẤU ẤN LỊCH SỬ Trao đổi với phóng viên Tiền Phong về những dấu ấn nổi bật của ngoại giao Việt Nam trong hành trình nửa thế kỷ của đất nước, chuyên gia bình luận quốc tế Phạm Phú Phúc, đánh giá: “Bản thân sự kiện giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước đã là dấu mốc quan trọng nhất, không chỉ của Việt Nam mà với cả thế giới, của các dân tộc đang đấu tranh giải phóng quốc gia”. Chỉ 2 năm sau khi thống nhất, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Liên Hợp Quốc (LHQ) - một bước ngoặt mở đầu cho thời kỳ hội nhập và xác lập vị thế quốc tế của đất nước. Sau đó, chúng ta đạt được một dấu ấn ngoạn mục nữa về ngoại giao, đó là gia nhập ASEAN. Gác lại những nghi kỵ trong nhiều năm, các nước khu vực đã trân trọng mời Việt Nam gia nhập tổ chức này. Ông Phúc cũng nhắc đến sự kiện Việt Nam tham gia Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC) năm 1998. Dù là thành viên mới, chúng ta đã đứng ra tổ chức rất thành công 2 kỳ hội nghị thượng đỉnh APEC vào các năm 2006 và 2017. Ông cho rằng, trong quan hệ quốc tế luôn có bạn có thù, có lúc này lúc kia, nhưng Việt Nam sẵn sàng gác lại quá khứ, hướng tới tương lai, và chủ trương đúng đắn đó đã dẫn đến việc Việt Nam bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc năm 1991, với Mỹ năm 1995 và Mỹ đã bỏ cấm vận Việt Nam. Đến năm 2006, Việt Nam trở thành thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). “Nếu ASEAN là sự hội nhập khu vực thì WTO là bước hội nhập quốc tế rất chững chạc của Việt Nam. Dù bấy giờ nền kinh tế của chúng ta còn khó khăn, khác xa hiện nay, thế nhưng chúng ta đã rất mạnh dạn và được quốc tế chào đón”, ông Phúc nói. Đến nay Việt Nam đã thiết lập được các quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, đối tác chiến lược theo lĩnh vực với nhiều quốc gia trên thế giới. Với nền ngoại giao uyển chuyển, thân thiện, làm bạn, làm đối tác tin cậy của tất cả các quốc gia, Việt Nam còn là điểm gặp gỡ của những nỗ lực giải quyết bất đồng, như thượng đỉnh Mỹ - Triều 2019 hay việc bốn lần tổ chức Đại lễ Phật đản Vesak… “Tất nhiên chúng ta phải có tài có lực mới làm được như vậy, vì nhiều nước gia nhập ASEAN và LHQ cũng không thể hiện vai trò nổi bật như Việt Nam”, ông Phúc nói. GS Carlyle Thayer, chuyên gia tại Đại học New South Wales, Học viện Quốc phòng Úc cho rằng, so với một số quốc gia sáng lập ban đầu, Việt Nam hiện đóng vai trò mạnh mẽ hơn trong việc thúc đẩy sự thống nhất và vai trò trung tâm của ASEAN, đóng góp vào hòa bình và ổn định ở Đông Nam Á. GS Thayer nhấn mạnh việc Việt Nam đóng góp sĩ quan và đơn vị Quân đội Nhân dân Việt Nam vào các phái bộ gìn giữ hòa bình của LHQ tại Nam Sudan và Cộng hòa Trung Phi kể từ năm 2014. BÍ QUYẾT Về những yếu tố góp phần tạo nên uy tín quốc tế ngày càng tăng của Việt Nam, ông Phúc cho rằng điều quan trọng nhất là chính sách đối ngoại nhất quán. Trong mấy thập kỷ qua, Việt Nam luôn duy trì chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, làm bạn với tất cả các quốc gia, không gây hấn, không đi với bên này để chống bên kia, không chọn phe… Người Việt Nam có câu “Có thực mới vực được đạo”. Sự phát triển thành công về kinh tế - xã hội của chúng ta là yếu tố quan trọng tạo nên những thành công về đối ngoại. “Những nỗ lực phát triển bao trùm, để không ai bị bỏ lại phía sau, với những chương trình xóa đói giảm nghèo và xóa nhà dột nát khiến thế giới phải công nhận Việt Nam”, ông nói. Ông cũng cho rằng, nhờ đức tính cần cù, chịu khó, Việt Nam đã vượt qua nhiều cuộc khủng hoảng, như khủng hoảng tài chính 1997-1998 hay khủng hoảng COVID-19, và chưa bao giờ rơi vào khủng hoảng chính trị. “Nền chính trị tự chủ, độc lập của chúng ta tạo niềm tin cho cộng đồng quốc tế, đặc biệt là giới đầu tư”, ông nói. CHỦ ĐỘNG VÀ DẪN DẮT GS Thayer cũng cho rằng Việt Nam đã củng cố vị thế là một thành viên xây dựng của cộng đồng quốc tế bằng cách duy trì quan hệ tốt đẹp với tất cả các cường quốc, bất chấp sự cạnh tranh của họ. Việt Nam là quốc gia duy nhất đã tiếp đón Tổng thống Mỹ Joe Biden (tháng 9/2023), Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình (tháng 12/2023) và Tổng thống Nga Vladimir Putin (tháng 6/2024) trong một thời gian ngắn. Gần đây nhất, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình vừa có chuyến thăm cấp Nhà nước đến Việt Nam từ ngày 14-15/4. Tổng Bí thư Tô Lâm là một trong những nhà lãnh đạo thế giới đầu tiên nói chuyện với Tổng thống Mỹ Donald Trump sau khi ông công bố một loạt mức thuế đối ứng. Ông Trump mô tả cuộc điện đàm đó “rất hiệu quả”. Theo ông Phúc, cuộc điện đàm trước tiên cho thấy sự chủ động của Việt Nam. “Tôi cho rằng sự chủ động ấy còn có tính chất dẫn dắt, vì sau đó nhiều quốc gia cũng làm như vậy. Cuộc điện đàm chứng tỏ Việt Nam theo đuổi phương pháp ngoại giao mềm mại, nhẹ nhàng, uyển chuyển, đồng thời cho thấy vai trò và vị thế của Đảng Cộng sản Việt Nam”, ông Phúc nói. Theo chuyên gia này, cuộc điện đàm là một ví dụ nữa thể hiện Mỹ công nhận thể chế chính trị và vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sau đó, Phó Thủ tướng Hồ Đức Phớc được cử làm Đặc phái viên của Tổng Bí thư Tô Lâm sang Washington làm việc với Bộ trưởng Tài chính Mỹ, thống nhất lộ trình để hai bên đàm phán tiến tới một thỏa thuận thương mại. Về câu hỏi Việt Nam nên làm gì để tiếp tục giữ vững, nâng cao vị thế của mình trong tình hình quốc tế đầy biến động hiện nay, ông Phúc cho rằng chúng ta phải chủ động thích ứng, kịp thời đưa ra giải pháp phù hợp để bảo đảm lợi ích của quốc gia dân tộc. “Bị động trong ngoại giao nguy hiểm không kém bị động về quốc phòng và an ninh”, ông nói. Ông Phạm Phú Phúc cũng cho rằng, Việt Nam cần kiên định chính sách ngoại giao năng động, mạnh mẽ nhưng mềm dẻo, chủ động trong các cơ chế đa phương cũng như quan hệ song phương. n Chỉ 2 ngày sau khi Tổng thống Donald Trump công bố các mức thuế đối ứng với hàng loạt đối tác thương mại, Tổng Bí thư Tô Lâm đã có cuộc điện đàm với nhà lãnh đạo Mỹ. Tổng Bí thư Tô Lâm điện đàm với Tổng thống Mỹ Donald Trump ẢNH: TTXVN TỪ CUỘC ĐIỆN ĐÀM CỦA TỔNG BÍ THƯ TÔ LÂM THU LOAN - THÁI AN Các nữ quân nhân Việt Nam lên đường đi làm nhiệm vụ gìn giữ hòa bình ở Nam Sudan NGUỒN: TN "Ngoại giao muốn phát triển rực rỡ thì kinh tế phải tiếp tục tăng trưởng, không chỉ dừng lại ở 8% mà phải là 2 con số, như chủ trương mà Chính phủ đã đề ra; vẫn phải duy trì phát triển bền vững, phát triển bao trùm, chuyển đổi xanh để không đứng ngoài xu thế của thế giới”. ÔNG PHẠM PHÚ PHÚC HÀO KHÍ VIỆT NAM 6
www.tienphong.vn 7 BƯỚC TIẾN NGOẠI GIAO Gần đây, Việt Nam có một bước tiến ngoại giao quan trọng khi cử phái đoàn cấp cao đến Washington, D.C. với mục tiêu chiến lược là giải quyết mất cân đối thương mại và củng cố quan hệ kinh tế với Mỹ. Hành động này thể hiện rõ sự cấp bách và quyết tâm của Hà Nội. Chính phủ Việt Nam đã nhanh chóng huy động những nhân sự cấp cao nhất, do Phó Thủ tướng Hồ Đức Phớc dẫn đầu, cho thấy giới lãnh đạo Việt Nam thực sự coi trọng quan hệ thương mại với Mỹ. Chuyến thăm của Phó Thủ tướng Hồ Đức Phớc được tổ chức kỹ lưỡng nhằm kết nối với các nhân vật chủ chốt trong giới chính trị và kinh tế tại Washington. Một trong những cuộc gặp quan trọng trong chuyến đi là cuộc đối thoại với Bộ trưởng Tài chính Mỹ Scott Bessent. Cuộc thảo luận hôm 11/4 được cho là tập trung vào việc thu hẹp thâm hụt thương mại giữa hai quốc gia, cũng như những cam kết của Việt Nam trong việc xử lý vấn đề gian lận xuất xứ hàng hóa. Ngoài ra, hai bên cũng trao đổi về các biện pháp thương mại công bằng và có đi có lại, mang lại lợi ích cho cả hai nền kinh tế. Một trong những ưu tiên hàng đầu của Tổng thống Trump là đưa ngành sản xuất trở lại Mỹ. Trong 20 năm qua, ngành dệt may gần như đã hoàn toàn chuyển ra nước ngoài, dẫn đến tình trạng thâm hụt thương mại lớn với các quốc gia Đông Nam Á như Việt Nam. Hiện tại, Mỹ đang bị thâm hụt thương mại với Việt Nam tới 123,5 tỷ USD, theo số liệu của hải quan Mỹ. Trước thềm thuế quan “Ngày Giải phóng”, Việt Nam đã chủ động cắt giảm thuế đối với một số mặt hàng của Mỹ như khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) và ô tô, đồng thời chấp thuận cho dịch vụ internet vệ tinh Starlink của tỷ phú Mỹ Elon Musk được triển khai tại Việt Nam, và cam kết tăng cường nhập khẩu hàng hóa từ Mỹ. ĐỐI TÁC TIN CẬY Trong khuôn khổ chuyến thăm chính thức, ngoài các cuộc gặp với một số thành viên trong nội các, phái đoàn Việt Nam cũng tích cực tăng cường quan hệ với giới lập pháp Mỹ thông qua các cuộc tiếp xúc với giới nghị sĩ. Đáng chú ý, đoàn đã gặp gỡ các Thượng nghị sĩ Cộng hòa Bill Hagerty (bang Tennessee) và Steve Daines (bang Montana) - những người có mối quan tâm lớn đến kinh tế châu Á và sự ổn định của chuỗi cung ứng toàn cầu. Những cuộc gặp này tạo cơ hội cho Việt Nam mở rộng sự ủng hộ tại Quốc hội Mỹ và củng cố sự quan tâm lưỡng đảng đối với việc làm sâu sắc thêm hợp tác kinh tế. Bằng cách kết nối với các nhà lập pháp có mối quan tâm chiến lược tại khu vực Ấn Độ Dương- Thái Bình Dương, Việt Nam đang khẳng định vai trò là một đối tác đáng tin cậy trong nỗ lực đa dạng hóa chuỗi cung ứng và thúc đẩy sự ổn định trong khu vực - một ưu tiên ngày càng cấp thiết trong bối cảnh biến động toàn cầu. Chiến dịch “ngoại giao quyến rũ” của Việt Nam không chỉ dừng lại ở các cuộc gặp chính thức. Phái đoàn còn chủ động tiếp cận các viện nghiên cứu, hiệp hội thương mại và các bên liên quan khác trong khu vực Washington D.C., nhằm xây dựng các mối quan hệ dài hạn và tạo thiện chí. Phương thức tiếp cận chủ động, thông điệp rõ ràng và sự hiện diện cấp cao của đoàn được đánh giá là một thắng lợi ngoại giao cho Việt Nam. Việt Nam đang đối mặt những thách thức lớn khi là quốc gia có mức thặng dư thương mại với Mỹ cao thứ ba, chỉ sau Trung Quốc và Mexico, với kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ vượt hơn 100 tỷ USD mỗi năm, bao gồm cả những đôi giày Nike nổi tiếng. Cần nhớ rằng mức thuế cao ban đầu do Washington áp đặt từng đe dọa gây căng thẳng trong quan hệ song phương vào thời điểm nhạy cảm - đúng lúc Việt Nam kỷ niệm 50 năm ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (trong khi Mỹ kỷ niệm 50 năm ngày Sài Gòn sụp đổ) - ngày 30/4. Với tư cách là đối tác chiến lược toàn diện, Việt Nam và Mỹ đã xây dựng mối quan hệ dựa trên hợp tác kinh tế, ổn định khu vực và lợi ích an ninh chung tại khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. THẾ LỰC ĐANG LÊN Dưới sự lãnh đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng rồi sau này là Tổng Bí thư Tô Lâm, Việt Nam đang vạch ra một con đường đầy tham vọng hướng đến tương lai kinh tế tiên tiến hơn. Mục tiêu quốc gia là trở thành nền kinh tế thu nhập cao, dựa vào tri thức và công nghệ vào năm 2045. Để đạt được điều đó, Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng hằng năm khoảng 8%, đi kèm với các khoản đầu tư lớn vào giáo dục, đổi mới sáng tạo và hạ tầng số. Chuyển hướng chiến lược này diễn ra đúng thời điểm khi vị thế thương mại toàn cầu của Việt Nam đang trên đà lên cao. Đối với người tiêu dùng Mỹ, đặc biệt trong giai đoạn mua sắm sôi động sau giải vô địch bóng bầu dục NCAA với nhu cầu cao về các sản phẩm Nike và Adidas (phần lớn được sản xuất tại Việt Nam), mức thuế thấp hơn đồng nghĩa với giá cả cạnh tranh hơn. Nhưng đối với Việt Nam, đây không chỉ là thắng lợi ngắn hạn mà là dấu hiệu cho thấy quốc gia này đã sẵn sàng đóng vai trò lớn hơn trong nền kinh tế toàn cầu- không chỉ là công xưởng sản xuất, mà còn là một thế lực đang lên trong lĩnh vực công nghệ và đổi mới sáng tạo. Trong nhiều thập kỷ qua, Việt Nam và Mỹ đã kiên trì xây dựng và củng cố quan hệ, và gần đây nâng cấp chính thức thành Đối tác chiến lược toàn diện. Mối quan hệ này dựa trên nền tảng hợp tác kinh tế mạnh mẽ, lợi ích chung trong việc duy trì ổn định khu vực và những mối quan tâm an ninh xuyên suốt khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Tuy nhiên, việc Mỹ đột ngột áp đặt thuế quan cao không chỉ gây tổn hại kinh tế ngắn hạn mà còn đe dọa phá vỡ các chuỗi cung ứng then chốt, làm lung lay niềm tin của nhà đầu tư và suy yếu sự tin cậy ngoại giao, từ đó có thể đẩy Việt Nam xích lại gần hơn với các liên minh kinh tế thay thế như Trung Quốc hoặc các khối khu vực không hoàn toàn đồng thuận với chiến lược của Mỹ. Quyết định gần đây của Washington trong việc giảm và tạm dừng thuế với Việt Nam còn có thể đóng vai trò chiến lược trong việc kiểm soát căng thẳng tại Biển Đông. Đây không chỉ là một hành động kinh tế mà còn là thông điệp về sự điều chỉnh chiến lược. Khi tranh chấp lãnh thổ và cạnh tranh khu vực ngày càng gay gắt tại khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, đặc biệt với việc Trung Quốc ngày càng quyết đoán trên Biển Đông, cách tiếp cận của Washington đối với Hà Nội thể hiện nỗ lực củng cố các liên minh và đối tác trong khu vực. Bằng việc giảm áp lực kinh tế, Mỹ đang chìa cánh tay hợp tác với một đối tác Đông Nam Á quan trọng, qua đó tăng cường khả năng chống chịu kinh tế của Việt Nam và khuyến khích hợp tác ngoại giao sâu sắc hơn. Trong bối cảnh cạnh tranh quyền lực ngày càng căng thẳng, việc duy trì quan hệ với Việt Nam không chỉ mang lại lợi ích thương mại mà còn là yếu tố then chốt để duy trì ảnh hưởng của Mỹ trong khu vực. Việt Nam giữ vị trí chiến lược cả về địa lý lẫn chính trị, với đường biển tiếp giáp nhiều khu vực tranh chấp ở Biển Đông. Việc củng cố quan hệ kinh tế thông qua nới lỏng thuế quan có thể giúp gia tăng niềm tin và mở đường cho hợp tác sâu rộng hơn về an ninh và ổn định khu vực. Trong bối cảnh này, ngoại giao kinh tế trở thành công cụ cho chiến lược địa chính trị giúp cân bằng ảnh hưởng của Trung Quốc và khẳng định cam kết của Mỹ với một Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng mở. n Vận mệnh thương mại của Việt Nam đang có một bước ngoặt đầy kịch tính. Đất nước “cờ đỏ sao vàng” đã sẵn sàng đóng vai trò lớn hơn trong nền kinh tế toàn cầu - không chỉ là công xưởng sản xuất, mà còn là một thế lực đang lên trong lĩnh vực công nghệ và đổi mới sáng tạo. GS JAMES BORTON (VIỆN CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI, ĐH JOHNS HOPKINS, MỸ) Về phía Việt Nam, bằng cách tận dụng điều kiện thương mại thuận lợi và đẩy mạnh cải cách mang tính chiến lược, đội ngũ lãnh đạo mà Tổng Bí thư Tô Lâm là đại diện đang từng bước khẳng định vai trò của Việt Nam không chỉ là duy trì đà tăng trưởng, mà còn là tái định hình bản sắc kinh tế của quốc gia trên trường quốc tế. Dù việc giảm thuế chỉ là lợi thế tạm thời, nếu Việt Nam kiên định với chiến lược của mình, phần thưởng đạt được có thể sẽ bền vững. Phó Thủ tướng Hồ Đức Phớc gặp Đại diện Thương mại Mỹ Jamieson Greer ngày 9/4/2025 ẢNH: TTXVN MỘT THẾ LỰC ĐANG LÊN HÀO KHÍ VIỆT NAM
8 www.tienphong.vn KHÔNG BỎ CUỘC Theo bà, đâu là sức mạnh mềm của Việt Nam và sức mạnh đó có phải là sức mạnh vượt trội so với các quốc gia khác hay không? Trong thế kỷ 20, Việt Nam nổi tiếng thế giới bởi cuộc chiến chống đế quốc Mỹ. Sau khi kết thúc chiến tranh, dân tộc Việt Nam thể hiện khát vọng hòa bình một cách mãnh liệt và nỗ lực vươn lên trong hòa bình, phát triển và hạnh phúc. Cố thứ trưởng Ngoại giao Lê Mai, người tham gia ở hội đàm Paris và ở trại Đavít, khi trả lời báo chí sau khi kết thúc chiến tranh bằng một câu rất cô đọng, súc tích và là một thông điệp vô cùng mạnh mẽ: “Việt Nam không chỉ là tên của một cuộc chiến. Việt Nam là một đất nước, một dân tộc”. Thông điệp là, đừng nhìn chúng tôi chỉ bằng lăng kính của chiến tranh, hãy nhớ rằng chúng tôi đấu tranh là để có hòa bình và thống nhất, để có điều kiện phát triển và giành lại hạnh phúc. Quyết chí, quyết tâm xuyên suốt của dân tộc Việt Nam là hòa bình, độc lập, thống nhất để cùng nhau vươn lên và phát triển. Cho nên, 20 năm sau chiến tranh, khi vừa bỏ cấm vận, cùng với đổi mới trong nước thì Việt Nam đã vươn lên. Một trong những dấu ấn nổi bật là bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ, gia nhập ASEAN, Tổ chức thương mại Thế giới (WTO), tham gia các hiệp định thương mại đa phương, trở thành thành viên chính thức của Liên Hiệp Quốc, phát huy được tiếng nói của Việt Nam tại diễn đàn toàn cầu này. Và từ đó đến giờ, Việt Nam đã vươn lên một cách ngoạn mục. Tôi muốn nhấn mạnh về sức sống, nghị lực vươn lên của toàn dân tộc. Khí phách của dân tộc Việt là không bao giờ bỏ cuộc. Một nhà đầu tư người Anh ở Việt Nam 30 năm, khi nói về người Việt Nam, ông đã nhắc đến hai ý, đó là kiên định, kiên cường và khả năng thích nghi. Ông ta nói: “Người Việt không bao giờ bỏ cuộc”. Câu nói đó phần nào lý giải Việt Nam từ bàn tay không trong quá khứ, đến ngày hôm nay chúng ta tiến đến đâu rồi, nhìn thì cũng biết. Tôi đưa ra dẫn chứng thứ hai, là cuốn sách xuất bản quý 4/2023 mang tên Việt Nam, ngôi sao đang lên của châu Á do hai “ông Tây”, một người New Zealand và một người Mỹ viết. Cả hai đã ở Việt Nam gần 20 năm, tức là họ ở ngay trong lòng Việt Nam từ rất lâu và ghi nhận điều đó chứ không phải vì chúng ta là người Việt nên “mèo khen mèo dài đuôi”. Tất nhiên, vẫn còn những cái lộn xộn, hạn chế và còn tiêu cực, nhưng quan trọng là họ nhìn thấy xu thế đi lên của Việt Nam. Theo bà, căn tính (của người) Việt là gì, và điều đó có ý nghĩa thế nào đối với sức mạnh Việt Nam? Tôi chưa dám kết luận ngay, nhưng một số ý kiến cho rằng căn tính Việt là tinh thần, ý thức dân tộc. Có mấy cái “mạch”, phải tiếp tục đào sâu suy nghĩ, nghiên cứu. Với chính trị thì nói là yêu nước, nhưng nói vậy là hơi khó, vì có những người (Việt) nhưng đã là công dân của nước khác, vì vậy, nếu nói yêu nước thì trước tiên họ phải yêu đất nước nơi mà họ có quốc tịch. Nhưng là người (gốc) Việt, dù có là công dân nước nào thì tâm trí và trái tim của họ vẫn hướng về Việt Nam. Cho nên, ý thức dân tộc là điều mà chúng tôi muốn nói đến để mọi người cùng suy nghĩ. Tôi sẽ không đồng ý với từ “yêu nước” khi nói về căn tính Việt, vì sẽ đẩy xa mấy triệu người Việt đang định cư ở hải ngoại. Trong số đó có những người đã từng bên kia chiến tuyến và họ cũng yêu nước theo kiểu của họ, mặc dù mình cho là sai trái, cho nên là điều đó sẽ gợi lại vết thương xưa cũ. Thứ hai là văn hóa truyền thống của dân tộc. Ý thức dân tộc và bản sắc văn hóa dân tộc khó diệt vong lắm. Khi có sự gắn bó về văn hóa của dân tộc thì dù quốc tịch gì cũng là dòng máu Việt và người ta tự hào khi đất nước vươn lên, dân tộc sáng ra, toàn thế giới nhìn vào nể phục và quý mến. Sức mạnh mềm là ở chỗ đó. Là người sáng kiến, vận hành Diễn đàn Việt Nam:Thời khắc Việt, theo bà, Việt Nam hiện đang ở thời khắc nào, và thời khắc đó quan trọng đến ĐẠI DƯƠNG (THỰC HIỆN) Sức mạnh mềm, khát vọng và thời khắc Việt Nam tỏa sáng… là chủ đề cuộc trò chuyện của Tiền Phong với nhà ngoại giao Tôn Nữ Thị Ninh - Chủ tịch Quỹ Hòa bình và Phát triển TPHCM, cựu Đại sứ Việt Nam tại Liên minh châu Âu, cựu Phó chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Quốc hội. "Ý thức dân tộc và bản sắc văn hóa dân tộc khó diệt vong lắm. Khi có sự gắn bó về văn hóa của dân tộc thì dù quốc tịch gì cũng là dòng máu Việt và người ta tự hào khi đất nước vươn lên, dân tộc sáng ra, toàn thế giới nhìn vào nể phục và quý mến. Sức mạnh mềm là ở chỗ đó”. NHÀ NGOẠI GIAO TÔN NỮ THỊ NINH SỨC MẠNH VIỆT NAM Xuất nhập khẩu đóng góp tỷ trọng lớn trong nền kinh tế ẢNH: HOÀNG HẢI HÀO KHÍ VIỆT NAM
www.tienphong.vn 9 mức nào trong việc xây dựng quốc gia thịnh vượng, hùng cường? Đó là thời khắc mà có những nhân tố hội tụ để Việt Nam vươn lên một cách thật rõ nét, mạnh mẽ và tương đối nhanh. Sự hội tụ đó bắt đầu quá trình đổi mới cho đến hội nhập, mà điển hình là gia nhập Liên Hiệp Quốc, ASEAN, WTO và đương nhiên có nhiều cái khác nữa như các hiệp định thương mại đa phương. Có được ngày hôm nay là chúng ta có sự chủ động hội nhập. Trong thời khắc này, sự chủ động vô cùng quan trọng. Thứ hai là đầu óc thực tế, biết cân nhắc, phải nắm bắt bối cảnh, tương quan lực lượng. Thứ ba là sự khéo léo. Sự chủ động của ta thì rất rõ ràng. Nhìn từ câu chuyện Mỹ áp thuế mới đây sẽ thấy, Việt Nam là nước đầu tiên chủ động “a lô” với Mỹ, việc xúc tiến đường lối đối ngoại và kinh tế đối ngoại của mình vô cùng chủ động. Nói cách khác, thời điểm này Việt Nam vừa thận trọng cân nhắc nhưng vừa chủ động và quyết liệt, không sợ và không bao giờ bỏ cuộc. Khi xác định bước vào kỷ nguyên mới, chúng ta có chung một cảm xúc và nhận thức là thời cơ, thời vận đang đến với đất nước và dân tộc, không khẩn trương, không kiên định thì sẽ mất cơ hội, vì cơ hội không thể kéo dài dài được. Và thời khắc Việt là như thế. HỘI TỤ ĐỂ VƯƠN LÊN MẠNH MẼ Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc là cụm từ được nhắc nhiều thời gian gần đây, theo bà đây có phải là cơ hội vàng, thậm chí là tốt nhất để Việt Nam đột phá, trỗi dậy mạnh mẽ? Đúng thế. Thế giới nhìn vào mình thì cũng nghĩ như vậy. Tăng trưởng GDP của Việt Nam thuộc nhóm đầu thế giới, rồi các nước đều đến Việt Nam. Cái khó trả lời hơn là mình có tranh thủ được cái cái thời cơ vàng này để mà thật sự vươn lên hay không? Tại vì nó đòi hỏi sự đoàn kết, chung lòng của mọi người Việt, kể cả cộng đồng hơn 5 triệu người Việt ở nước ngoài, nhất là những nhân tố ưu tú. Tôi cũng phải nhắc lại cái điều mà tôi đã phát biểu ở Diễn đàn Việt Nam: Thời khắc Việt là, nếu ở một số thập niên trước, người Việt, phải là ở nước ngoài mới có thể đạt đến tài năng đỉnh cao, nhưng bây giờ trong nước rất nhiều tài năng sáng ngời. Tôi hay nói đùa là bây giờ đất Việt Nam “trồng” được những tài năng xuất chúng, không thua kém gì ở nước ngoài và không cần phải ra nước ngoài. Theo bà, làm thế nào để vượt qua những khác biệt của các cộng đồng người Việt bốn phương, kể cả khác biệt về môi trường sống, về điều kiện, hoàn cảnh xã hội lẫn quan điểm chính trị… để mọi người xích lại gần nhau, hợp tác, gắn kết với nhau? Đã 50 năm chiến tranh kết thúc rồi, những người Việt ở nước ngoài mà có điều kiện để tham gia đóng góp trong nước thì đối với họ chiến tranh là chuyện của quá khứ, nên tôi nghĩ vấn đề này không còn nặng nề. Khi ý thức, bản sắc dân tộc đủ mạnh thì với họ sự khác biệt là chuyện quá khứ, không cản trở họ quay về Việt Nam với những dự án, những cơ hội phát triển. Tôi khẳng định rất nhiều Việt kiều có sẵn lòng tự hào dân tộc và bản sắc Việt, chỉ là họ không biết rằng có cơ hội để cống hiến cho Việt Nam hay không. Cho nên, trong câu chuyện này, đất nước phải rộng cửa giới thiệu những cái hay, đang có ở trong nước để bà con hải ngoại thấy được cơ hội và tham gia. Bây giờ, không đòi hỏi người ta phải hy sinh, ngược lại phải cho người ta thấy được cơ hội và họ sẽ tranh thủ cơ hội này. Khi đó họ sẽ tự nhận thấy, thay vì đi giúp thiên hạ ở nước khác thì họ về Việt Nam. Một thời gian dài người Việt có tâm lý hướng ngoại, nhưng đây là lúc chúng ta cần phải nhìn vào bên trong để thấy chính mình rõ hơn và phát huy giá trị nội sinh. Theo bà, giá trị nội sinh của người Việt hiện nay được phát huy thế nào, nhất là trong giới trẻ? Tiếp xúc với giới trẻ nhiều, tôi nhận thấy người trẻ hôm nay rất nhanh nhạy, nhưng có phần hạn chế về chiều sâu. Tuy nhiên, tôi luôn lạc quan vì nhiều bạn trẻ vẫn muốn tìm đến giao lưu, học hỏi thì có nghĩa là trong giới trẻ vẫn có những người có tư duy chiều dài, chiều sâu. Nhưng mà phải hết sức chủ động đối với giới trẻ. Nếu để người trẻ bị cắt đứt sợi dây liên kết giữa các thế hệ thì sẽ biến thành các ốc đảo: Ốc đảo tuổi trẻ, ốc đảo trung niên, rồi ốc đảo cao niên. Ba cái ốc đảo đó không có giao thoa gì với nhau thì nguy hiểm. ĐỊNH VỊ THƯƠNG HIỆU QUỐC GIA Để định vị thương hiệu quốc gia, theo bà phải dựa trên những giá trị cốt lõi nào? Thương hiệu quốc gia phải là sự hội tụ, gặp nhau từ hai phía, một là tự nhận thức, là gắn kết, là cam kết từ trong nước, của dân và các đơn vị trong nước; hai là sự công nhận của bên ngoài. Vài chục năm về trước, thế giới vẫn nghĩ Việt Nam là đất nước chiến tranh. Giờ mình muốn thoát khỏi cái hình ảnh đó thì đồng ý, nhưng sẽ tự giới thiệu với thế giới như thế nào? Tôi chưa có câu trả lời cụ thể, nhưng nhận thấy, dù mình chọn cái gì làm thương hiệu, hình ảnh quốc gia, thì trong đó cũng phải phát huy giá trị lịch sử, văn hóa truyền thống. Điều quý giá là tuổi trẻ Việt Nam không phủ định giá trị văn hóa truyền thống. Mọi người cùng xác định thương hiệu cho Việt Nam, riêng tôi nghĩ xác định thương hiệu quốc gia không phải bằng sản phẩm mà bằng cái tố chất của người Việt. Người Pháp xác định thương hiệu quốc gia là nghệ thuật sống, vậy thì sự sáng tạo, óc thẩm mỹ của người Việt cũng rất đáng để tính đến trong việc xác định, xây dựng thương hiệu quốc gia Việt Nam. Đất nước đã thống nhất nhưng bây giờ mới đặt ra câu chuyện xây dựng thương hiệu quốc gia. Như vậy có quá muộn không, thưa bà? Muộn, nhưng không phải muộn quá. Quan trọng nhất là mọi người phải thấy được sự cần thiết phải xây dựng thương hiệu quốc gia. Nhiều người thắc mắc, làm điều đó để làm gì? Tôi nói, không muốn biết mình là ai sao? Không muốn người ta nhìn vào Việt Nam với những giá trị này, giá trị kia mà toàn thấy những cái xấu, tiêu cực sao? Điều gì là trở ngại lớn nhất trong việc xây dựng thương hiệu quốc gia Việt Nam và và mình phải làm như thế nào để vượt qua những cái trở ngại, khó khăn đó? Việc đầu tiên là phải vượt qua sự ngộ nhận. Vì người ta cứ nghĩ thương hiệu quốc gia Việt Nam là thương hiệu của các tập đoàn hoặc công ty, thậm chí là sản phẩm cụ thể. Hàng năm doanh nghiệp nộp hồ sơ và được cơ quan chuyên trách của Chính phủ xem xét, công nhận “thương hiệu quốc gia”, điều đó làm cho việc xây dựng thương hiệu quốc gia Việt Nam đi không đúng hướng. Cái đó là thương hiệu doanh nghiệp. Còn đây là chuyện khác, là nhân dân, dân tộc Việt Nam tự định vị bản thân, tự xác định cái mạnh, cái hay của mình trong suốt chiều dài lịch sử đến tận hôm nay và cả tương lai như thế nào. Việc tự khẳng định đó phải được thế giới thừa nhận. Để bên ngoài thừa nhận mình thì việc cần làm là phải hội nhập, giao lưu, trao đổi với bên ngoài. n Việt Nam sẵn sàng bước vào kỷ nguyên mới ẢNH: PHẠM NGUYỄN Để kể với thế giới một “Câu chuyện Việt Nam” trong 50 năm qua, bà sẽ kể gì? Sự trỗi dậy. Cái mà chúng ta có thể khoe, giới thiệu với thế giới, phân tích cho thế giới biết và hiểu thì đó là sự trỗi dậy của Việt Nam từ tro tàn của chiến tranh, từ sự chia rẽ của chiến tranh. Sự trỗi dậy để mang lại phồn vinh và hạnh phúc cho dân và để xác lập một cái chỗ đứng là xứng đáng cho đất nước này. Câu chuyện của Việt Nam thật sự đáng để kể. Tinh thần dân tộc và văn hóa truyền thống là sức mạnh mềm của Việt Nam HÀO KHÍ VIỆT NAM
RkJQdWJsaXNoZXIy MjM5MTU3OQ==