Báo Tiền Phong số đặc biệt/9 2/2025

Thiếu tướng Hoàng Kiền từng gắn bó với Trường Sa từ năm 1989, khi ông mới là Trung đoàn trưởng trung đoàn công binh Hải quân 83, được phân công ra xây dựng những công trình quân sự ở Trường Sa. Nhớ đến những ngày tháng thiếu thốn trăm bề ấy, ông bảo thương nhất là bữa cơm trên đảo của bộ đội: “Quanh năm ăn đồ hộp, khi tàu ra tiếp tế mới được mấy bữa rau, mắc bệnh đường ruột rất nhiều. Thời điểm các đơn vị công binh ra xây dựng, tàu chở vật liệu cấp hàng liên tục anh em mới có rau xanh ăn thường xuyên. Nhưng đấy không phải là kế lâu dài. Phải biết rằng, các đảo ở Trường Sa đều rất khô cằn, toàn là cát đá san hô, không có nước ngọt nên hầu như không có cây xanh. Thứ cây có thể sống được chỉ có phong ba, bàng vuông và muống biển”. Về sau, Thiếu tướng Hoàng Kiền chính là một trong những người đầu tiên đề xuất và thực hiện công trình mang đất ra Trường Sa để các chiến sĩ trồng rau xanh, cải thiện cuộc sống. Tôi cũng đã gặp những người thợ của “làng xây đảo” Bỉnh Di, Giao Thủy, Nam Định và nghe họ kể về những ngày đầu tiên xây dựng Trường Sa. Ông Nguyễn Văn Hoàn, một thợ nề giỏi của làng Bỉnh Di được chiêu mộ ra xây dựng Trường Sa kể lại: “Năm 1991, chúng tôi lần đầu đặt chân lên đảo Nam Yết, lúc bấy giờ chỉ có nắng, cát và san hô thôi, cây cối không có gì. Đến năm 2011 tôi ra Đảo Trường Sa lớn xây cái nhà truyền thống thì cây cối phủ xanh mát rượi rồi”. Một người khác tôi gặp, cũng rất gắn bó với Trường Sa là Thiếu tướng Nguyễn Hồng Sơn, nguyên Giám đốc Bệnh viện Quân y 175, người có dấu ấn đặc biệt trong việc biến một tổ quân y 3 người ở Trường Sa thành một trung tâm y tế hiện đại như hiện nay. Còn nhà thơ Trần Đăng Khoa, tác giả của tiểu thuyết “Đảo chìm” được nhà văn Lê Lựu đánh giá là “thần bút” thì rất thường kể cho đám hậu sinh nghe những câu chuyện của “Trường Sa ngày ấy”, khi mà ở những đảo chìm như Len Đao, Cô Lin... mới chỉ có những chiếc lều bạt dựng tạm để giữ đảo. Cho đến khi tôi được tham gia chuyến tàu số 9 ra Trường Sa. Trường Sa thực sự sinh động hơn, dữ dội hơn và kiên cường hơn tất cả những gì tôi có thể hình dung. Gió muối và khí hậu đặc thù khiến không khí ở các đảo quanh năm giống “trời nồm” ở miền Bắc. Vào giữa trưa, khi cái nóng 40 độ hắt xuống, trời không một gợn gió, ngay cả một hơi thở nhẹ cũng có thể cảm giác được vị mặn của muối lan dần vào khoang mũi. Để một cái cây bén rễ, dù là cây phong ba dễ sống nhất, các chiến sĩ đều phải bắt đầu che chở cho nó bằng lưới bọc sắt và sẻ chia nguồn nước ngọt quý giá trong suốt quá trình cây trưởng thành. Nói không quá thì mỗi mầm xanh ở đảo đều được lớn lên trong nâng niu. Ở những đảo chìm như Đá Thị, mỗi năm người lính phải chuyển những chậu hoa giấy của mình hai lần. Nửa năm ở phía Bắc, nửa năm ở phía Nam, để tránh gió trực tiếp từ biển quất vào. Để trả nghĩa, cái đám hoa lá ấy cũng tận sức mà bung nở. Tôi lần đầu tiên có cảm giác tha hương gặp cố nhân khi nhìn thấy giữa mênh mông biển nước và đá san hô một gốc hoa của đất liền. Cái sự sống bé nhỏ mà kiên cường ấy không biết đã gánh vác bao nhiêu là ký thác, của những người lính một năm ba trăm sáu mươi lăm ngày chỉ nhìn thấy màu xanh của trời, của nước biển và màu nắng cũng xanh đến cay mắt. Khó khăn như thế, khắc nghiệt như thế, nhưng Trường Sa bây giờ vẫn khiến tôi không thể kết nối với hình ảnh “bề mặt quần đảo cằn cỗi không khác gì Mặt trăng” như lời kể của Thiếu tướng Hoàng Kiền. Công cuộc “xanh hóa Trường Sa” đã khiến những đảo như Song Tử Tây, Sinh Tồn... được phủ xanh bằng đu đủ, hồng xiêm, rau ngót, rau đay, rau dền, rau muống, bằng những giàn bầu, giàn mướp trĩu quá. Những đứa trẻ con trên đảo có một vẻ khoẻ mạnh và dạn người đặc biệt. Khi chúng tôi ngồi nói chuyện với thầy giáo Hồng Lĩnh trên đảo Sinh Tồn, học sinh từ lớp mẫu giáo lớn đến lớp 5 vui vẻ xoay quanh thầy với đủ thứ vấn đề của những đứa nhỏ đang ở tuổi vô ưu vô lo. Trẻ con luôn có một giác quan đặc biệt đối với những người thực sự quan tâm và yêu thương nó. May mắn, những đứa trẻ ở đảo đã có một thầy giáo tốt. Điện mặt trời, nước ngọt, đường giao thông, trường học, chùa, nhà văn hoá... đang dần dần biến những đảo hoang ở rải rác giữa biển trở thành làng, thành nơi chôn nhau cắt rốn của những thế hệ sau thời kỳ mở đường giữ đảo. Việc em bé Nguyễn Ngọc Trường Xuân được sinh ra ngay trên đảo lớn Trường Sa giống như một thông điệp về sự sống tiếp diễn và đầy sinh cơ của quần đảo này. Mà để đổi lấy tất cả những lấp lánh ấy, là một cái giá không thể nào đo đếm. Trong bài thơ “Thêm một lần Tổ quốc được sinh ra”, tôi cho là hay nhất của Nguyễn Việt Chiến, ông viết: “Có nơi nào như đất nước chúng ta/ Viết bằng máu cả ngàn chương sử đỏ/ Khi giặc đến vạn người con quyết tử/ Cho một lần Tổ quốc được sinh ra”. Rất nhiều người trong chúng tôi đã rơi nước mắt khi tham dự lễ tưởng niệm 64 cán bộ, chiến sĩ đã ngã xuống trong cuộc chiến ở đảo Gạc Ma, một nửa trong số họ đều mới chỉ mười tám hai mươi tuổi “chưa một lần biết hôn”. Và tấm bia dính máu trên đảo Sinh Tồn sừng sững nhắc nhở về một quá khứ bi tráng gắn liền với hy sinh xương máu của bao người, bao thế hệ... n Đến mới hiểu TRƯỚC KHI ĐẾN TRƯỜNG SA, TÔI CHO RẰNG MÌNH ĐÃ HIỂU TRƯỜNG SA ĐỦ NHIỀU! KHI VIẾT BÀI CHÂN DUNG VỀ THIẾU TƯỚNG HOÀNG KIỀN, TÔI ĐÃ DÀNH RẤT NHIỀU THỜI GIAN PHỎNG VẤN NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG ĐÃ QUA CỦA ÔNG. HAI PHẦN BA THÔNG TIN TRONG NHỮNG CÂU CHUYỆN ẤY LÀ VỀ TRƯỜNG SA. HẠNH ĐỖ Những cái vẫy tay lưu luyến với đất liền TRƯỜNG SA Ngoài 9 con chó thì đám hoa giấy trên đảo Đá Thị được đưa vào danh sách ưu tiên chăm sóc mỗi ngày của toàn bộ chiến sĩ tâm không gì lay chuyển được của toàn dân tộc Việt Nam trong việc bảo vệ và phát huy thành quả cách mạng đã giành được trong suốt 15 năm đấu tranh giành chính quyền do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo (1930 - 1945) mà trực tiếp là cao trào cách mạng dẫn đến thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 (1939 - 1945). Thời điểm này, sự khẳng định đó có ý nghĩa rất lớn khi cách mạng Việt Nam đang chuẩn bị bước vào những thách thức cực kỳ gay go, như ngay sau đó diễn ra với tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”: Giặc ngoài thù trong nổi lên, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chưa được nước nào công nhận, kể cả Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác; các thế lực phản động trong nước ngóc đầu dậy phá hoại cách mạng; kinh tế tiêu điều do hậu quả cai trị của chế độ đế quốc và phong kiến tay sai. Trong 80 năm qua (1945 - 2025), đất nước Việt Nam với chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, đã vượt qua rất nhiều khó khăn, thử thách xây dựng, củng cố, phát huy sức mạnh tổng hợp từ khối đại đoàn kết toàn dân tộc để phát triển, trong đó có việc giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp tái chiếm (1945 - 1954), trong cuộc kháng chiến 21 năm chống Mỹ, cứu nước (1954-1975); đánh thắng cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Tây Nam do sự xâm lược của Pol Pot và sự xâm lược ở biên giới phía Bắc do bọn bành trướng Trung Quốc gây ra. Lời thề độc lập vang lên từ Chủ tịch Hồ Chí Minh tại vườn hoa Ba Đình (Hà Nội) trong buổi chiều nắng vàng mật ong ngày 2/9/1945 đã được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta thực hiện một cách xuất sắc. Giữ nước đi đôi với dựng nước. Với mục tiêu và con đường đã được xác định từ Đại hội Tours, được khẳng định lại trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ngày 3/2/1930, Nhân dân Việt Nam đã xây dựng đất nước Việt Nam ngày càng “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”, tiến hành công cuộc đổi mới. Trong gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới từ cuối năm 1986 trở đi, Việt Nam đã tiến những bước dài trên con đường phát triển và đang vững tin, tự hào, đầy sinh khí tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình tới hạnh phúc, hùng cường, thỏa lòng mong mỏi của Bác Hồ kính yêu và đáp ứng khát vọng của dân tộc Việt Nam sánh vai với các cường quốc năm châu. Tất cả những thành tựu vĩ đại trên đây, có thể nói, đều bắt nguồn từ thắng lợi của cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho đồng bào, biểu đạt rõ ràng nhất trong bản hùng ca Tuyên ngôn Độc lập. Nay, vào thời điểm kỷ niệm 80 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Bản Tuyên ngôn Độc lập - sự tiếp nối của Nam quốc sơn hà thế kỷ XI, của bản Bình Ngô đại cáo thế kỷ XV của nước Đại Việt – vẫn là niềm cảm hứng lớn lao bất diệt cổ vũ cho cả dân tộc Việt Nam đi tới theo mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trân trọng cảm ơn GS.TS! RẠNG RỠ VIỆT NAM 7 www.tienphong.vn

RkJQdWJsaXNoZXIy MjM5MTU3OQ==