QUYẾT TÂM, QUYẾT ĐOÁN Ở tuổi 75, TS Phan Hữu Thắng, nguyên Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nay là Bộ Tài chính – PV) vẫn toát lên nguồn năng lượng dồi dào khi nhắc đến câu chuyện thu hút FDI, lĩnh vực gắn bó cả sự nghiệp của ông. Trong căn phòng làm việc gọn gàng, biểu đồ dòng vốn FDI vào Việt Nam giai đoạn trước được đóng khung treo kín tường, tái hiện những dấu mốc sống động của dòng chảy vốn ngoại. Những bức hình kỷ niệm thời còn công tác, gắn liền với đầu tư nước ngoài của ông cũng được trưng bày trang trọng. Từ những khởi đầu ấy, câu chuyện về hành trình gần 40 năm thu hút FDI, đã đưa Việt Nam vào nhóm 15 quốc gia đang phát triển có sức hút vốn đầu tư lớn nhất thế giới dần được gợi mở. Đến nay, FDI không chỉ là nguồn vốn, mà còn mang đến công nghệ, cơ hội việc làm và góp phần nâng cao năng lực sản xuất của đất nước. TS Phan Hữu Thắng kể, sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước năm 1975, lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước đã tính đến việc sử dụng nguồn vốn đầu tư nước ngoài, trong bối cảnh sau chiến tranh ngân sách nhà nước eo hẹp, cơ sở hạ tầng của nền kinh tế đã bị tàn phá nặng nề. Từ văn bản đầu tiên thể chế hóa đường lối kinh tế đối ngoại – Điều lệ về Đầu tư nước ngoài (năm 1977) đến Luật Đầu tư nước ngoài (năm 1987), có thể xem là chặng đường của những bước khởi đầu mới mẻ nhưng quyết đoán. Tiếp tục chặng đường ấy, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 liên tục được sửa đổi, bổ sung với nhiều cấp độ khác nhau vào các năm 1990, 1992, 1996, 2000, 2005, 2014 và 2020. Qua từng lần điều chỉnh, đạo luật được cộng đồng quốc tế đánh giá là ngày càng thông thoáng, hấp dẫn, và phù hợp với thông lệ quốc tế. Chính sự cải cách liên tục ấy đã giúp Việt Nam xây dựng môi trường đầu tư minh bạch, ổn định. Luật đã có, và kế hoạch 5 năm đầu tiên (1991–1995) đặt ra chỉ là chỉ thu hút khoảng 2 tỷ USD vốn FDI, là con số rất khiêm tốn so với hàng chục tỷ USD mỗi năm của giai đoạn hiện nay, nhưng là bước khởi đầu quan trọng. “Nếu đặt lại bối cảnh thời điểm đó, mới thấy rõ sự khó khăn, và vì thế một dự án đầu tư quy mô lớn được cấp phép khi ấy là sự kiện đặc biệt, cả Chính phủ cùng vào cuộc,” ông nói và dẫn chứng về dự án của Tập đoàn Intel. Cuối năm 2006, Intel chính thức nhận giấy phép đầu tư dự án 1 tỷ USD. Sau cú hích Intel, nhiều tập đoàn công nghệ đã vào Việt Nam. Ngày nay, khu công nghiệp đã hiện diện ở hầu hết các tỉnh, thành trong cả nước, với số lượng, quy mô và nguồn vốn đến từ nhiều nhà đầu tư khác nhau. Tuy nhiên, dự án khu công nghiệp Nomura tại Hải Phòng – khu công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đầu tiên ở miền Bắc, vẫn là một trong những bước đi ban đầu khó quên với lãnh đạo Cục Đầu tư nước ngoài khi ấy. Với vai trò hiện tại là Chủ tịch Liên chi hội Tài chính Khu công nghiệp Việt Nam, TS Phan Hữu Thắng bật cười khi nhớ lại, vào những năm 1980, ông và các cộng sự khi ấy còn chưa từng hình dung, thậm chí hoàn toàn chưa có khái niệm về khu công nghiệp. Khi đó, ông phải sang Singapore, Đài Loan để tận mắt học hỏi mô hình, để rồi mang những kinh nghiệm ấy về Việt Nam, khu công nghiệp là một không gian sản xuất hiện đại, sạch sẽ, quy củ, có nhà máy, hạ tầng và dịch vụ đồng bộ. Việc Nomura vào đầu tư khiến Chính phủ và các bộ, ngành khẩn trương vào cuộc, cùng nhà đầu tư tháo gỡ vướng mắc, tìm tiếng nói chung cho những yêu cầu đặt ra. Đây là minh chứng rõ nét cho một giai đoạn Việt Nam còn nhiều bỡ ngỡ, nhưng đã thể hiện quyết tâm lớn trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài. VỊ THẾ SAU GẦN 4 THẬP KỶ VÀ BÀI TOÁN ĐI ĐỀU 2 CHÂN Từ 2 tỷ USD thuở đầu, đến hết năm 2024, theo số liệu từ Bộ Tài chính, tổng vốn nước ngoài FDI đăng ký vào Việt Nam đạt gần 502,8 tỷ USD, trong đó vốn thực hiện đạt gần 322,5 tỷ USD. Trong khi đó, lũy kế đến cuối 2024, cả nước có khoảng 1.825 dự án đầu tư ra nước ngoài với tổng vốn đăng ký hơn 22,59 tỷ USD. Hiện nay, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài (OFDI) của Việt Nam vẫn khiêm tốn, tập trung chủ yếu ở khai khoáng, dầu khí, viễn thông (Viettel tại châu Phi, Lào, Myanmar…) và một số ít doanh nghiệp lớn như Vinamilk, FPT, Hoàng Anh Gia Lai. Một vài thành công bước đầu đã chứng minh tiềm năng: Vinamilk đầu tư trang trại tại Nga, Viettel mở rộng nhiều thị trường mới nổi, FPT vươn ra toàn cầu trong lĩnh vực công nghệ. Tuy nhiên, số lượng dự án như vậy còn quá ít so với hàng trăm nghìn doanh nghiệp tư nhân trong nước – quy mô nhỏ, siêu nhỏ, hạn chế về tài chính và công nghệ. Đầu tư ra nước ngoài giúp doanh nghiệp mở rộng thị trường, học hỏi công nghệ, đồng thời khẳng định thương hiệu Việt trên bản đồ kinh tế thế giới. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vướng mắc: khung pháp lý chưa hoàn thiện, thủ tục chuyển vốn – chuyển lợi nhuận về nước còn phức tạp, thiếu hỗ trợ tài chính và cơ chế khuyến khích rõ ràng. TS Phan Hữu Thắng cho rằng, nhiều năm qua, khi nói đến đầu tư nước ngoài, phần chủ yếu được nhắc đến là FDI - dòng vốn ngoại vào Việt Nam. Tuy nhiên, đã đến lúc cần nhìn lại một thành phần quan trọng không kém là OFDI của các doanh nghiệp Việt Nam. Nếu chỉ dựa vào một chân, tức FDI, thì nền kinh tế sẽ thiếu cân bằng, mất cơ hội và phụ thuộc nhiều vào đối tác. Thực tiễn cho thấy, các nền kinh tế từng trải qua giai đoạn khó khăn như Nhật Bản, Hàn Quốc đều chủ động đưa doanh nghiệp ra ngoài tìm kiếm hợp đồng, mở rộng thị trường và học hỏi công nghệ. Từ lĩnh vực xây dựng, công nghệ cho tới công nghiệp chế tạo, việc “đi ra ngoài” đã giúp họ tích lũy kinh nghiệm, vốn và năng lực cạnh tranh. Việt Nam cũng cần đi theo con đường này, nhất là trong bối cảnh hội nhập sâu rộng và tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do. Giai đoạn tới, theo ông Thắng, Việt Nam cần một chương trình tổng thể rà soát thành công – thất bại của OFDI, tháo gỡ nút thắt về chính sách, và có cơ chế chọn lọc – hỗ trợ doanh nghiệp đủ năng lực tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Khuyến nghị chiến lược ngắn – trung hạn (đến năm 2030), TS Phan Hữu Thắng đề xuất ưu tiên hỗ trợ các dự án công nghệ, R&D, chuỗi cung ứng toàn cầu và dịch vụ, thay cho OFDI dựa vào tài nguyên. Doanh nghiệp cần được khuyến khích liên minh, liên doanh, M&A (mua bán & sáp nhập) ra nước ngoài; đồng thời Nhà nước xem xét lập quỹ hỗ trợ hoặc bảo hiểm rủi ro chính trị/tài chính cho nhà đầu tư. Xác định tầm nhìn dài hạn (đến năm 2045), mục tiêu tập trung xây dựng một số tập đoàn Việt Nam thành “nhà đầu tư toàn cầu” trong năng lượng sạch, viễn thông, công nghệ, logistics. OFDI sẽ chuyển từ khai khoáng, nông nghiệp sang công nghệ cao, tài chính xuyên biên giới, năng lượng tái tạo, sản xuất giá trị gia tăng. Hệ sinh thái hỗ trợ toàn diện cần được hình thành, từ pháp luật, quỹ, thương vụ, đại sứ quán đến nhân lực và khởi nghiệp. Đồng thời, đánh giá OFDI phải dựa vào chất lượng, như tỷ trọng đầu tư công nghệ, dịch vụ đến 2030 và số tập đoàn Việt có doanh thu quốc tế trên 1 tỷ USD vào 2045. n TS PHAN HỮU THẮNG NÓI, NẾU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 GIÚP VIỆT NAM GIÀNH ĐƯỢC CHỦ QUYỀN DÂN TỘC, THÌ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI) TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI VÀ HỘI NHẬP LÀ BIỂU TƯỢNG CHO VIỆC KHẲNG ĐỊNH CHỦ QUYỀN KINH TẾ CỦA VIỆT NAM TRONG MỘT THẾ GIỚI TOÀN CẦU HÓA. BƯỚC VÀO KỶ NGUYÊN MỚI, BẰNG “ĐÔI CHÂN” ĐẦU TƯ, VIỆT NAM CÓ THỂ VƯƠN MÌNH RA THẾ GIỚI. VIỆT LINH Hội nghị trao đổi kinh nghiệm liên doanh với nước ngoài năm 1996 Từ những ngày "dò đường" ĐẾN KỶ NGUYÊN MỚI “Việt Nam cần đi bằng cả hai chân đầu tư FDI & OFDI, bằng đôi chân đầu tư vươn mình ra thế giới, xây dựng thành công một Việt Nam hùng cường, có nền kinh tế tự chủ, độc lập không phụ thuộc vào bất kỳ đối tác nào trên thế giới, không bị chao đảo trong bất kỳ bối cảnh địa chính trị nào”. TS PHAN HỮU THẮNG RẠNG RỠ VIỆT NAM 5 www.tienphong.vn
RkJQdWJsaXNoZXIy MjM5MTU3OQ==