Báo Tiền Phong số đặc biệt/9 2/2025

KỶ NGUYÊN VƯƠN MÌNH QUỐC KHÁNH BÌNH YÊN BÊN NẾP NHÀ SÀN Cũng như mọi năm, Quốc khánh năm nay, Tả Van sẽ đón khách đông hơn. Dòng người xuôi ngược dọc con đường Mường Hoa sẽ dừng xe, rẽ vào bản. Những homestay mái lá ẩn mình bên bờ suối trở thành chốn dừng chân lý tưởng để ai muốn trốn phố xá khói bụi tìm về một đêm yên bình, nghe tiếng suối, tiếng gió lùa qua rặng su su xanh mướt. Ở cuối bản Tả Van Giáy II, chị Lương Thị Chanh (chồng là Sừn Văn Mừn), chủ homestay nhỏ mà du khách quen gọi bằng cái tên mộc mạc “Hoa Chanh” tất bật nhóm bếp, dọn sân, hong lại mấy tấm chăn thổ cẩm phơi sẵn trên lan can gỗ. Mấy người khác trong nhà thì rửa rau; mải mê gói những chiếc bánh lá rừng làm quà đãi khách. “Khách về bản đông hơn, nhất là khách trong nước. Họ đặt trước cả tuần. Dịp Quốc khánh mà, ai cũng thích lên núi, ngủ nhà gỗ, ăn cơm cùng người bản. Ngủ ở nhà gỗ, đắp chăn thổ cẩm, nghe tiếng côn trùng ngoài ruộng, ngoài suối…”, chị Chanh nói, tiếng cười lẫn trong khói bếp bay nghi ngút. Tả Van mấy năm gần đây trở thành điểm đến nổi tiếng nhất Sa Pa về du lịch cộng đồng. Cả bản có trên 30 hộ làm homestay, quán ăn, dịch vụ trekking. Những đứa trẻ lớn lên trong bản giờ đã quen với việc nói “Hello” với khách Tây, cười e ấp chào khách Việt. Một vài em đã được gia đình cho học ngoại ngữ, học thêm kỹ năng dẫn tua để về bản làm du lịch thay vì đi làm thuê dưới phố như cha mẹ chúng ngày trước. Ghé Hoa Chanh homestay, khách không chỉ ngủ sàn gỗ mà còn được ngồi bên bếp lửa bập bùng. Một mâm cơm cộng đồng bày ra, thơm lừng mùi cá suối nướng, gà đen luộc, măng rừng xào, chén rượu ngô sóng sánh. Chủ - khách không ai lạ ai. Du khách kể chuyện phố, chủ homestay thức cả đêm kể chuyện rừng núi. Câu chuyện râm ran từ chuyện lúa mới tới chuyện xưa cha ông dựng bản, giữ đất, giữ rừng Hoàng Liên. BỀN VỮNG CHO HÔM NAY VÀ MAI SAU Anh Nông Đức Mạnh, 30 tuổi, con trai một gia đình có nhiều đời bám ruộng ở Tả Van, giờ vừa làm ông chủ, vừa làm hướng dẫn viên tại chỗ. Khi khách lên lịch trình du lịch ở bản, anh Mạnh sẽ thiết kế. Rảnh thì anh sẽ dẫn khách đi, không thì đã có anh em trong bản. Buổi sáng họ sẽ dắt đoàn khách leo núi, băng qua những cánh đồng su su, ghé thăm những ngôi nhà cổ của người Giáy, người Mông. Buổi tối họ về nhà phụ bếp tiếp khách, rồi lại lọ mọ dịch những câu chuyện của bản bằng tiếng Anh cho du khách nghe. “Em đi học trên thị xã về, tính xin việc khách sạn, nhưng rồi lại về bản. Ở bản mình có đất, có núi, có ruộng, có suối. Khách thích nghe em kể chuyện bản, chuyện ruộng bậc thang. Mình làm du lịch, vừa có thêm thu nhập, vừa giữ được bản…”, anh Mạnh chậm rãi nói, mắt nhìn về những thửa ruộng bậc thang đang chín vàng dưới nắng sớm. Tả Van có những đổi thay mà ai về cũng thấy. Bản có đường bê tông, có điện sáng, có trường học, trạm y tế, có nhà sinh hoạt cộng đồng. Những phụ nữ Giáy, phụ nữ Dao đỏ từng quanh năm chỉ quen với nương ngô, nương lúa, giờ biết đón khách, biết bày món ẩm thực đặc trưng, bán hàng thổ cẩm, tự tay dệt ra những tấm khăn, túi, ví vải để khách mang về làm quà. Nhưng đổi thay lớn nhất là trong nếp nghĩ. Từ chỗ chỉ quen nhận khách theo kiểu tự phát, nay người Tả Van học cách làm du lịch bền vững. Họ lên mạng để bán phòng trên mạng quốc tế, không chờ khách đến theo tua như trước nữa. Họ làm homestay theo tiêu chuẩn sạch sẽ, gọn gàng. Đoàn thanh niên bản tổ chức dọn suối, làm đường, treo biển chỉ dẫn, giữ gìn cảnh quan như giữ gìn chính gian nhà của mình. Ở bản này, bố anh Mạnh, ông Nông Văn Cần là một trong những người đầu tiên mạnh dạn bỏ ruộng để làm homestay, vẫn giữ thói quen căng lá cờ đỏ trước hiên nhà mỗi dịp Quốc khánh. Anh Mạnh bảo: “Quốc khánh bây giờ vui lắm. Mấy năm nay, khách đến đông vui như hội. Khách ở đây cũng khác, họ hỏi chuyện, nghe ông kể chuyện xưa, rồi còn chụp ảnh với cờ Tổ quốc. Thấy tự hào lắm, vì người ở xa về bản, mà bản mình vẫn giữ được hồn”. Khi mặt trời chậm rãi xuống núi, sương bắt đầu lãng đãng trở lại, khách du lịch ngồi quây quần bên sân gỗ, nghe tiếng đàn môi, một điệu Then cũ. Trẻ con bản Tả Van ríu rít chạy quanh sân, cờ đỏ trên tay phấp phới. Mùi khói bếp, mùi gạo mới, mùi men rượu ngô quyện vào nhau, mang theo hơi ấm của một vùng cao đang tự tin đón khách, giữ bản. Hơi ấm du khách mang lại những mái nhà mới, con đường mới, những lớp học sáng đèn. Nhưng trên tất cả, đồng bào ở Tả Van hiểu rằng chỉ khi còn giữ được thửa ruộng bậc thang, còn tiếng khèn Mông, điệu múa Giáy, bản mới còn nguyên hồn cốt. Du lịch cộng đồng ở Tả Van vì thế không chỉ là sinh kế, mà còn là cách để những người con bản gìn giữ mạch văn hóa, mạch rừng núi đã nuôi họ bao đời. n ở bản du lịch cộng đồng SÁNG CUỐI THÁNG TÁM, SƯƠNG MÙ Ở SA PA (LÀO CAI) NHƯ TẤM KHĂN MỎNG CHOÀNG NGANG SƯỜN NÚI HOÀNG LIÊN. TỪ TRUNG TÂM SA PA, CHẠY XE THÊM CHỪNG MƯỜI CÂY SỐ, BẢN TẢ VAN HIỆN RA DƯỚI THUNG LŨNG MƯỜNG HOA. TRONG ÁNH BÌNH MINH VÀNG NHẠT, NHỮNG MÁI NHÀ SÀN GỖ NỐI NHAU QUA NHỮNG CON ĐƯỜNG NHỎ, UỐN LƯỢN, XUNG QUANH LÀ NHỮNG RUỘNG BẬC THANG ĐẸP NHƯ TRANH VẼ… ĐỨC ANH QUỐC KHÁNH Joseph Lyons – người sau này trở thành Thủ hiến Tasmania và Thủ tướng Úc. Cuộc đời làm vợ chính trị gia không hề dễ dàng. Dame Enid Lyons là người mẹ của 12 người con, nhưng hai trong số đó không may mắn qua đời từ nhỏ. Dẫu vậy, bà vẫn sát cánh bên chồng trong từng bước thăng trầm của sự nghiệp. Sau khi chồng mất năm 1939, Enid không lùi lại phía sau mà tiến bước về phía trước, mang theo lý tưởng của chồng và giấc mơ của riêng mình. Năm 1943, ở tuổi 46, Dame Enid Lyons trở thành người phụ nữ đầu tiên được bầu vào Hạ viện Liên bang Úc. Sau đó, bà tiếp tục làm nên lịch sử khi là người phụ nữ đầu tiên tham gia Nội các Liên bang với chức danh Bộ trưởng không bộ của Đảng Tự do. Trái tim nhân hậu, sự thấu cảm và quan điểm sắc sảo giúp bà nhanh chóng giành được sự tôn trọng của đồng nghiệp. Trong tiểu sử được ghi lại ở bức chân dung của mình, bà được biết tới không chỉ là một chính khách mà còn là một cây bút sắc sảo. Dame Enid Lyons từng cộng tác với tờ Women’s Weekly và viết nhiều cuốn sách, trong đó có tác phẩm nổi bật “So We Take Comfort” và “Among the Carrion Crows”. Dẫu chính trường khắc nghiệt, bà luôn giữ được chất thơ trong tâm hồn và sự dịu dàng của một người mẹ, một người phụ nữ của nhân dân. Bà qua đời năm 1981, để lại một di sản không chỉ về chính trị mà còn là biểu tượng vĩnh cửu của lòng dũng cảm và sự cống hiến. Còn Dame Dorothy Tangney, một giáo viên đến từ Tây Úc, là nữ nghị sĩ đầu tiên của Thượng viện. Sinh ra trong nghèo khó, trải qua giai đoạn suy thoái, bà dấn thân vào chính trị vì những người yếu thế trong xã hội. Bà tranh đấu không mệt mỏi cho giáo dục, y tế và công bằng xã hội. Dame Dorothy Tangney sinh năm 1907 tại Bắc Perth, Tây Úc. Bà là con út trong gia đình lao động gốc Ireland. Cuộc sống nghèo khó và trải nghiệm khắc nghiệt trong thời kỳ suy thoái đã rèn giũa nơi bà một trái tim nhạy cảm và tinh thần thép. Từ sớm, bà ý thức rằng giáo dục chính là chiếc chìa khóa thoát nghèo. Bà không ngừng đấu tranh cho quyền lợi của phụ nữ, trẻ em và những người “bên lề xã hội”. Năm 1943, cũng trong cuộc tổng tuyển cử lịch sử đó, bà trở thành nữ nghị sĩ đầu tiên của Thượng viện Liên bang Úc, đại diện cho Đảng Lao động bang Tây Úc. Tại Thượng viện, Dorothy Tangney trở thành tiếng nói không thể thiếu trong các cuộc tranh luận về phúc lợi xã hội, giáo dục, y tế và quyền lợi phụ nữ. Bà đấu tranh cho việc mở rộng các dịch vụ y tế công, phát triển hệ thống giáo dục đại học và bảo vệ quyền lợi lao động. Với lòng quyết tâm và nhân ái, bà đã vượt qua mọi định kiến, trở thành hiện thân của lòng trắc ẩn và sự quả cảm. Từ năm 1943 đến năm 1968, bà phục vụ bền bỉ tại Thượng viện - một thời gian dài hiếm có với một nữ chính trị gia lúc bấy giờ. Nhiều người gọi bà là “người vì thế hệ mai sau”, bởi Dorothy Tangney không chỉ tranh đấu cho hiện tại, mà còn gieo mầm cho những đổi thay bền vững. n Tả Van đang dần trở thành h©nh mĸu cho câu chuyện “làm du lịch nhưng không đánh mất m©nh” ở v¶ng cao Sa Pa. Khi Quốc khánh kh¦p lại, đoàn xe khách sẽ rời bản, trả lại Tả Van vň yên b©nh vốn có. Nhưng những câu chuyện kŐ đêm hôm trước, những bữa cơm cŦng đŠng, những đêm lźa trại bên bờ suối Mường Hoa sẽ ở lại, in dấu trong l¯ng những du khách yêu miền sơn cước. Và chắc chắn, họ sẽ lại trở về, đŐ nghe kŐ chuyện rừng, chuyện ăn bát cơm mới bên bếp lźa hŠng, đŐ biết rằng Tả Van vĸn c¯n đây - như mŦt miền đất neo giữ hŠn n·i giữa nhịp sống đổi thay. Buổi chiều, khi nắng nhẹ buông trên mái cŜ toà nhà Quốc hŦi, tôi rời khŜi Capital Hill trong gió lạnh với mŦt cảm giác khó tả. Bất chợt, tôi thấy trên phiến đá cạnh lối ra, d¯ng chữ: “Freedom is not something you inherit. It must be recreated by each generation” - “Tự do không phải là thứ được thừa kế. Nó phải được tái tạo bởi mỗi thế hệ”. Homestay của anh Nông Đức Mạnh 67 www.tienphong.vn

RkJQdWJsaXNoZXIy MjM5MTU3OQ==