KỶ NGUYÊN VƯƠN MÌNH "ỐC ĐẢO" GIỮA RỪNG NÚI Xã Sơn Điền, tỉnh Lâm Đồng chính thức thành lập năm 1984. Tuy nhiên, lịch sử vùng đất này bắt đầu từ rất lâu trước đó. “Nhắc đến Sơn Điền phải kể đến năm 1942. Khi đấy là thời điểm người dân chiến đấu chống lại ách đô hộ, cùng cán bộ cách mạng xây dựng căn cứ kháng chiến Mang Yếu - Chi Lan. Ngay từ đầu kháng chiến, trước cả Cách mạng tháng Tám năm 1945, Sơn Điền đóng vai trò quan trọng trong việc nuôi dưỡng, bảo vệ lực lượng cách mạng”, ông K’Nhuân (lãnh đạo UBND xã Sơn Điền) chia sẻ. Theo ông K’Nhuân, bước ngoặt lịch sử quan trọng vào năm 1947, khi đó, một đội du kích 40 tay súng của xã được thành lập. Đội du kích này có nhiệm vụ trừ gian, diệt ác, bảo vệ vững chắc căn cứ kháng chiến chống Pháp. Trong cuộc kháng chiến này, du kích Sơn Điền phối hợp lực lượng vũ trang tỉnh lập nhiều chiến công vang dội. Tiêu biểu là trận tập kích đồn Gia Bát năm 1954, tiêu diệt hàng trăm địch, phối hợp chặn đánh các đoàn xe quân sự của địch trên dốc Nao Sẻ. Cuối kháng chiến, du kích Sơn Điền còn được biết đến qua trận phục kích tự tổ chức ở buôn B’Rang, gây nhiều tổn thất cho địch. Đến kháng chiến chống Mỹ, Sơn Điền tiếp tục khẳng định vị thế là một trong những cái nôi của phong trào cách mạng. Các cán bộ cách mạng từ Khu 6 (Tám Cảnh, Ma Hương) bám đất, bám dân, không ngừng phát triển căn cứ. Đến năm 1957, Sơn Điền có chi bộ Đảng, chi đoàn thanh niên giải phóng và các đơn vị du kích ngày càng lớn mạnh. “Có thể khẳng định, từ năm 1966 đến 1970, Sơn Điền trở thành vùng căn cứ cách mạng quan trọng. Nơi nuôi quân, cung cấp lương thực và đạn dược cho bộ đội. Những địa danh như Đồi Mỹ, đồi B40, khe Máu,… đã ra đời trong những tháng ngày chiến tranh ác liệt, ghi dấu những hy sinh, gian khổ của quân và dân Sơn Điền. Việc Sơn Điền trở thành căn cứ vững chắc, được ví như “ốc đảo” giữa rừng núi, không chỉ thể hiện sự tin tưởng của cách mạng mà còn cho thấy sự che chở, đùm bọc của người dân địa phương đối với bộ đội”, ông K’Nhuân cho hay. THAY DA ĐỔI THỊT Theo lãnh đạo UBND xã Sơn Điền, sau những năm tháng chiến tranh, Sơn Điền ngày nay đã thay đổi đáng kinh ngạc. Từ vùng căn cứ cách mạng, nay vùng đất ấy đã trở thành vùng quê trù phú với những ngôi nhà kiên cố giữa màu xanh núi rừng. Sự thay đổi rõ rệt nhất là kinh tế. Đầu tiên, theo ông K’Nhuân phải kể đến việc thay đổi nếp nghĩ cách làm, chuyển đổi từ canh tác truyền thống sang trồng các loại cây có giá trị kinh tế cao như cà phê, lúa nước (giống mới), sầu riêng, bơ, mắc ca,… Năng suất và sản lượng cà phê tăng lên đáng kể, với diện tích canh tác rộng lớn. “Năm 2024, thu nhập bình quân đầu người đạt 53,2 triệu đồng/ người/năm. Một nguồn thu nhập quan trọng khác là từ việc nhận khoán quản lý và bảo vệ rừng”, ông K’Nhuân nói. Lãnh đạo UBND xã Sơn Điền chia sẻ, sự thay đổi kinh tế kéo theo những biến đổi tích cực trong đời sống xã hội và văn hóa. Người dân, đặc biệt là đồng bào K’Ho vẫn giữ gìn giá trị văn hóa truyền thống. Các lễ hội truyền thống như Lễ Nhô rơhe được khôi phục và duy trì. Nghề dệt thổ cẩm cũng được quan tâm phát triển. Điều này cho thấy nỗ lực bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc. Trong hành trình khám phá Sơn Điền, tôi đã có dịp lắng nghe những câu chuyện đầy xúc động của người dân nơi đây. Trong căn nhà kiểu biệt thự mái Thái, bà Ka Thị Nghiểu (78 tuổi, cựu thanh niên xung phong) vẫn nhớ như in năm tháng gian khổ tải đạn, tải lương thực cho bộ đội. Bà kể, thời điểm từ năm 1966-1970, những cánh rừng quanh vùng Sơn Điền, Gia Bắc, Hòa Bắc, Hòa Ninh (tên gọi ngày nay) hầu như đều in dấu chân của bà và đồng đội. Giờ đây, gia đình bà có gần 6ha cà phê, mỗi năm thu hoạch hàng tỷ đồng. “Sau giải phóng, tôi xin về công tác tại huyện Di Linh, đến năm 1990 chuyển về Sơn Điền ở hẳn. Bởi đây là quê hương, nơi tôi sinh ra và lớn lên”, bà Nghiểu kể. Trong khi đó, ông K'Giáp (thôn Bờ Nơm, xã Sơn Điền) lại cho chúng tôi biết về việc chủ động đào ao, hồ để tưới cà phê mùa khô, cho thấy sự thích ứng và sáng tạo. Những câu chuyện này đã vẽ nên bức tranh sống động về sự đổi thay của Sơn Điền. “Sự thay đổi của Sơn Điền là kết quả phối hợp giữa chính sách đầu tư của Nhà nước và nỗ lực của người dân. Đồng thời, cộng đồng vẫn giữ vững niềm tin vào Đảng, chung sức bảo vệ môi trường và xây dựng quê hương”, ông K’Giáp khẳng định. n Ký ức “ốc đảo” và nhịp sống mới VÙNG ĐẤT TỪNG ĐƯỢC VÍ NHƯ "ỐC ĐẢO" GIỮA NÚI RỪNG KHÔNG CHỈ LƯU GIỮ KÝ ỨC HÀO HÙNG CỦA PHONG TRÀO CÁCH MẠNG, MÀ CÒN ĐANG KHOÁC LÊN MÌNH DIỆN MẠO MỚI. TỪ CĂN CỨ KHÁNG CHIẾN KIÊN CƯỜNG, SƠN ĐIỀN (LÂM ĐỒNG) HÔM NAY ĐANG CHUYỂN MÌNH MẠNH MẼ TRONG NHỊP SỐNG HIỆN ĐẠI, NHƯNG VẪN GIỮ TRỌN NÉT BÌNH YÊN CỦA QUÊ HƯƠNG ĐỒNG BÀO MẠ, K’HO. THÁI LÂM “Tỷ lệ hộ nghèo đa chiều trong tỉnh chỉ còn dưới 2%, trong đó hộ nghèo người dân tộc thiểu số dưới 5,5%. Phát huy tinh thần đoàn kết, bà con các dân tộc đang tiếp tục chung tay xây dựng quê hương giàu mạnh. Đặc biệt, giờ đây người dân đã biết chuyển đổi cơ cấu cây trồng; vật nuôi, biết áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất, nâng cao hiệu quả canh tác…”. Ông BON YÔ SOAN - Phó Chủ tịch UBMT Tổ quốc Việt Nam tỉnh Lâm Đồng thường phải uống sữa để bồi dưỡng. Nhưng khi nghe các cán bộ Bảo tàng Cách mạng Việt Nam đặt vấn đề muốn xin lưu bút bài “Tiến Quân ca” của ông để làm hiện vật trưng bày, nhạc sĩ Văn Cao hoạt bát hẳn lên. Ông vui vẻ tiếp khách, kể chuyện về việc sáng tác bài hát “Tiến Quân ca”, mà tính đến thời điểm đó bài hát đã ra đời tròn nửa thế kỷ. Thời điểm đến gặp, biết nhạc sĩ bị mệt, nên các cán bộ Bảo tàng Cách mạng Việt Nam đã chuẩn bị sẵn một số khuôn nhạc để nhạc sĩ Văn Cao điền các nốt nhạc và phần lời bài hát vào đó. Nhưng nhạc sĩ Văn Cao nói tự tay ông sẽ kẻ khuôn nhạc và chép lại hoàn chỉnh bài Quốc ca để tặng Bảo tàng. Một thời gian sau, nhận được tin bản Quốc ca được chép xong, các cán bộ Bảo tàng đã đến nhà nhạc sĩ Văn Cao để nhận hiện vật này. Hôm đó, họ được biết, để có bản Quốc ca được chép lại này, nhạc sĩ đã phải chép lại vài lần. Điều này khiến các cán bộ bảo tàng rất cảm động, vì lúc này nhạc sĩ đã yếu, tay đã run, nhưng ông đã cố gắng kẻ từng khuôn nhạc, viết từng nốt nhạc lẫn lời bài hát “Tiến Quân ca” rất rõ ràng để gửi tặng Bảo tàng Cách mạng Việt Nam. Hôm đó, cũng nhân việc chép lại bài hát “Tiến Quân ca”, nhạc sĩ Văn Cao cũng kể lại cho các cán bộ Bảo tàng Cách mạng Việt Nam nghe việc trước đây ông đã từng viết bài hát này lên đá để in trên báo Độc Lập cách đây nửa thế kỷ. Về điều này, nhạc sĩ Văn Cao đã có lưu bút ghi lại sự kiện trên: “Tháng 11/1944, tôi tự tay viết bài“Tiến Quân ca”lên đá in trang Văn nghệ đầu tiên của tờ báo Độc Lập, còn giữ lại nét chữ viết của một anh thợ mới vào nghề. Một tháng sau khi báo phát hành, tôi từ cơ quan ấn loát trở về. Qua một đường phố nhỏ (bây giờ là đường Mai Hắc Đế) tôi chợt nghe tiếng đàn măng-đô-lin từ một căn gác vọng xuống. Tôi dừng lại và tự nhiên thấy xúc động. Một xúc động đến với tôi hơn tất cả những tác phẩm tôi đã được trình diễn ở các rạp hát trước đây…”. Hơn ba mươi năm đã trôi qua kể từ khi nhạc sĩ Văn Cao chép lại bài hát “Tiến Quân ca”gửi tặng Bảo tàng Cách mạng Việt Nam để trưng bày. Lưu bút đó đã thành một hiện vật lịch sử, để cho các du khách khi đến tham quan Bảo tàng Lịch sử Quốc gia ngày nay được thấy một bài hát đã trở thành Quốc ca của đất nước Việt Nam. n Những căn nhà kiên cố xuất hiện ngày càng nhiều giữa màu xanh núi rŸng Bà Ka Thị Nghiểu giới thiệu những chiŌn tích của bà thời chiŌn tranh Năm 1994, nhạc sĩ Văn Cao đ ch¦p tńng Bảo tàng Lịch sź Quân sự Việt Nam bản nhạc bài hát “Tiến Quân ca”, hiện được trưng bày cạnh bŦ kèn đŠng được Ban Âm nhạc Giải phóng quân sź dụng đŐ h¯a tấu bài Quốc ca trong lễ Tuyên ngôn ĐŦc lập, ngày 2/9/1945 tại Quảng trường Ba Đ©nh. Tại bản nhạc ch¦p lại này, nhạc sĩ cũng ghi lời đề tńng Bảo tàng Lịch sź Quân sự Việt Nam, ngày 22/3/1994. Hơn nźa năm sau khi ch¦p lại bài hát “Tiến Quân ca” tńng Bảo tàng Cách mạng Việt Nam (ngày 22/12/1994), nhạc sĩ Văn Cao đ qua đời. Đây có lẽ là bài hát “Tiến Quân ca” được nhạc sĩ Văn Cao ch¦p lại lần cuối c¶ng. 57 www.tienphong.vn
RkJQdWJsaXNoZXIy MjM5MTU3OQ==