cách mạng nên ngoài nhiệm vụ chiến đấu, quân Tây Tiến còn có nhiệm vụ vận động, tuyên truyền, lôi kéo nhân dân các dân tộc đi theo cách mạng. Do tính chất đặc biệt quan trọng đó mà không chỉ ra một quyết định, một mệnh lệnh thành lập Mặt trận Tây Tiến và các đơn vị bộ đội Tây Tiến vào cuối tháng 1 đầu tháng 2 năm 1947, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp còn gửi một bức thư dài cho các chiến sĩ Tây Tiến vào ngày 1/2/1947. Trong thư, sau khi nói rõ tầm quan trọng chiến lược của Tây Tiến, Tổng Tư lệnh viết: “Trên con đường về Miền Tây, các đồng chí sẽ phải lặn lội nơi rừng xanh, suối bạc, ở những địa phương nửa ngày đường không thấy bóng người, thủy thổ không quen thuộc, vật chất thiếu thốn, ngôn ngữ bất đồng, nước độc ma thiêng. Chỉ một việc cất chân lên đường tiến về hướng Tây là đủ tỏ rõ cái chí hi sinh, cái lòng kiên nghị của các đồng chí. Các đồng chí biết rằng trên mặt trận này phải đương đầu với nhiều hiểm nghèo, khổ sở. Những sự hiểm nghèo, khổ sở có bao giờ chinh phục được lòng anh dũng của những thanh niên hăng hái, có bao giờ chinh phục được chí hướng của một dân tộc”. Và Tổng Tư lệnh căn dặn bộ đội Tây Tiến ba điều: Một là về cư xử quan hệ với đồng bào thiểu số; Hai là chăm lo sức khỏe của mình; Ba là phải có sáng kiến và kiên tâm trong vận động nhân dân và tiến đánh địch. Tổng Tư lệnh còn căn dặn thêm là “có gặp anh em Lào hay Mèo (Mông) thì phải đứng trên lập trường bình đẳng, tương trợ giúp đỡ cuộc vận động giải phóng của họ mà tiếp xúc, giải quyết mọi vấn đề”. Những lời căn dặn không chỉ nêu đầu mục mà đều hết sức chi tiết chứng tỏ tầm nhìn và nắm rất vững đặc điểm, tình hình địa bàn của vị Tổng Tư lệnh. Sau này, tình hình diễn ra đúng như những dự liệu trong bức thư của ông. Năm 2007, gửi thư cho các cựu binh Tây Tiến, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhớ lại mấy câu thơ ông đã làm khi các chiến binh Tây Tiến lên đường: “Sông Đà, sông Mã uốn dòng/ Gềnh rêu, thác bạc ghi công anh hào/ Sao vàng tung cánh bay cao/ Ngọn cờ chỉ hướng ngôi sao dẫn đường”. Điều đó cho thấy Tổng Tư lệnh dành rất nhiều tâm trí và tình cảm cho công cuộc Tây Tiến. Khu vực trọng tâm của mặt trận Tây Tiến là tỉnh Hòa Bình. Sau năm 1947 có khá nhiều thành công với một số trận thắng và đặc biệt là xây dựng cơ sở cách mạng và lực lượng trong nhân dân các dân tộc. Nhưng các năm 1948 và 1949, mặt trận Tây Tiến gặp nhiều khó khăn, tổn thất do địch điều những lực lượng lớn, vượt trội ta nhiều lần mở nhiều gọng kìm tiến công. Trung đoàn Tây Tiến phải đổi chiến thuật, áp dụng phương thức “Đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung”, tránh đụng độ với lực lượng mạnh của địch, đưa các đại đội độc lập và đội vũ trang tuyên truyền luồn sâu vào vùng tạm chiếm làm công tác vận động, xây dựng lại cơ sở cách mạng và lực lượng dân quân, tự vệ địa phương, thuận lợi mới đánh địch. Giai đoạn này, trên cũng điều mấy tiểu đoàn của trung đoàn đi xây dựng các đơn vị chủ lực khác. Trung đoàn Tây Tiến ít trận đánh lớn nhưng trong muôn vàn gian khổ đã làm được điều rất quan trọng là lôi kéo được nhân dân, giữ vững cho họ niềm tin ở cách mạng, dìu dắt phong trào kháng chiến ở địa phương đi lên. Đến cuối năm 1949, đầu năm 1950, ta điều lực lượng tiến công giải phóng Mai Châu và hai phần ba tỉnh Hòa Bình. Bộ Tổng tư lệnh chủ trương thành lập các đơn vị bộ đội địa phương để đảm nhận nhiệm vụ chiến đấu tại chỗ, một bộ phận quân Tây Tiến tách ra ở lại xây dựng các tiểu đoàn, đại đội địa phương, còn chủ yếu được điều về vùng dưới cùng các đơn vị khác thành lập Đại đoàn Đồng bằng (Sư đoàn 320 sau này). Những đơn vị đầu tiên Tây Tiến là của Thủ đô, trong đó có hai tiểu đoàn đã chiến đấu 60 ngày đêm trong lòng Hà Nội. Sau đó, thêm một tiểu đoàn được điều từ Hải Phòng lên và một tiểu đoàn thành lập tại tỉnh Hòa Bình. Việc đoàn binh Tây Tiến có rất nhiều người Hà Nội và miền xuôi khiến Tây Tiến có cái chất lãng mạn rất đặc biệt, nhưng cũng khiến Tây Tiến là một công cuộc đầy hi sinh bi hùng do các chiến sĩ không quen với khí hậu, thổ nhưỡng, bệnh tật vùng rừng thiêng nước độc, lại phải leo trèo núi cao liên tục trong điều kiện vô cùng thiếu thốn lương thực, thuốc men, vũ khí. Nhưng các chiến sĩ Tây Tiến thể hiện rõ sự can trường, coi cái chết tựa lông hồng, quyết xả thân vì dân tộc. Tất cả những điều trên được nhà thơ Quang Dũng thể hiện rất trung thực, tài hoa trong bài thơ “Tây Tiến”, một kiệt tác được coi là một trong những tác phẩm hay nhất của cả hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. * Quang Dũng tham gia Tây Tiến chỉ trong năm 1947, 1948. Ông lên đường Tây Tiến khi tiếng súng ở Mặt trận Hà Nội còn nổ. Ông thuộc ban chỉ huy một đơn vị đặc biệt của Mặt trận Tây Tiến có tên ban đầu là “Đoàn Võ trang tuyên truyền Tây Tiến” (có tài liệu ghi rõ Quang Dũng là Đoàn phó). Đơn vị có nhiệm vụ lên các bản làng (hồi đó gọi là động) của đồng bào các dân tộc thiểu số trên núi cao một vệt từ Hòa Bình, Mai Châu, Ninh Bình, Thanh Hóa để tuyên truyền chính sách đại đoàn kết dân tộc và đường lối kháng chiến của Chính phủ Cụ Hồ, vận động nhân dân đi theo cách mạng. Đoàn nhanh chóng có sự tham gia của một trung đội bộ đội Lào nên được đổi tên thành “Đoàn Võ trang Tuyên truyền Biên khu Lào - Việt”. Trong vòng ba bốn tháng, Đoàn có ba trung đội, gồm trung đội bộ binh Việt, trung đội Lào và trung đội nhạc binh 40 tay kèn, trống (trong đội này do nhạc sĩ Đinh Ngọc Liên chỉ huy) đã trèo lên khoảng “một trăm động Mán”, tuyệt đại đa số đều cao trên núi, leo ít thì vài giờ, lâu thì vài ngày liên tục, người cúi khom khom, chúi về phía trước mà leo. Gặp dân thì tuyên truyền chính sách mới, vận động dân theo Bác Hồ, theo Cách mạng, mở các đêm hội, đêm liên hoan diễn kịch, hát cho dân và cùng dân. Kịch thì thường rất đơn giản, thực ra là các tiểu phẩm. Đoàn còn hướng dẫn dân đào hầm tránh máy bay, thực hiện nếp sống vệ sinh… Các chiến sĩ của Đoàn bắt đầu thực hiện nhiệm vụ từ Suối Rút (Hòa Bình), cuốc bộ, leo trèo núi xuyên đến tận Sài Khao, Pha Luông của huyện Mường Lát (Thanh Hóa), giáp biên giới Lào. Từ vùng núi Tây Thanh Hóa giáp Lào, Đoàn được rút về Hòa Bình. Từ đây, phần lớn trung đội Lào được cử đi học quân chính, đào tạo thành cán bộ trung đội; Trung đội nhạc binh điều lên Việt Bắc, xây dựng thành đội lễ nhạc của Bộ Tổng Tham mưu; Trung đội bộ binh còn lại được cử luồn vào vùng địch hậu Hoà Bình để vừa chiến đấu vừa xây dựng phong trào kháng chiến. Quang Dũng thuộc nhóm cán bộ được rút đi xây dựng các đơn vị chiến đấu khác. Cuối năm 1948, ông được bổ nhiệm làm trưởng tiểu ban Tuyên huấn của trung đoàn 52. Sau đó ông trở thành Đoàn trưởng Đoàn văn nghệ Liên khu III. Tháng 8 năm 1951, ông xuất ngũ chuyển sang công tác khác. Tây Tiến để lại ký ức sâu đậm trong Quang Dũng nên ông để lại hai tác phẩm quan trọng về giai đoạn này. Đó là bài thơ “Tây Tiến” viết mùa xuân năm 1948 và truyện ký “Đoàn Võ trang Tuyên truyền Biên khu Lào - Việt” viết khoảng đầu những năm 50 mãi mấy năm trước đây mới được xuất bản dưới cái tên “Đoàn binh Tây Tiến” (đoạt giải A Giải thưởng Sách Quốc gia năm 2020). Với hai tác phẩm này, Quang Dũng là người viết sử đầu tiên cho Tây Tiến, và viết tài hoa đến mức tinh thần Tây Tiến sẽ được lưu truyền mãi. Tây Tiến có lẽ là một cơ cấu (viết như thế vì Tây Tiến vừa là một khu, một mặt trận, vừa là một trung đoàn trong Kháng Pháp) hiếm hoi mà khi Ban Liên lạc Cựu chiến binh không thể hoạt động nữa (do gần hết người, số ít người còn sống thì quá già yếu) thì con cháu nhận cây gậy tiếp sức lập Ban Liên lạc Truyền thống Tây Tiến. Ban này do chị Bùi Phương Thảo, con gái nhà thơ Quang Dũng làm trưởng ban, gồm toàn con cháu của các chiến binh Tây Tiến, hàng năm đều có những hoạt động rất ý nghĩa để tôn vinh và phát huy truyền thống vinh quang của bộ đội Tây Tiến mà một trong số đó là tự đóng góp tiền để làm công trình bia đá kỷ niệm Tây Tiến ở bản Sài Khao, Mường Lý, Thanh Hoá, nơi được lưu danh sử sách bởi câu thơ Quang Dũng: “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi”. n QUANG DŨNG Tây Tiến Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây súng ngửi trời Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời! Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi * Doanh trại bừng lên hội đuốc, hoa Kìa em xiêm áo tự bao giờ Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa * Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành * Tây Tiến người đi không hẹn ước Đường lên thăm thẳm một chia phôi Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi. Phù Lưu Chanh, 1948 Những năm đầu, các chiến sĩ Tây Tiến ai mang quần áo gì ở nhà đi thì mặc nấy Bia kỷ niệm Tinh thần Tây Tiến ở bản Sài Khao, Thanh Hóa do con cháu các chiến binh Tây Tiến trong Ban Liên lạc Truyền thống Tây Tiến lập. Chị Bùi Phương Thảo, con gái nhà thơ Quang Dũng, Trưởng ban Liên lạc đứng ở hàng bên trái, thứ hai từ trong ra KỶ NGUYÊN VƯƠN MÌNH 43 www.tienphong.vn
RkJQdWJsaXNoZXIy MjM5MTU3OQ==