Báo Tiền Phong số đặc biệt/9 2/2025

NGUYÊN LIỆU TỐT NHẤT Núi rừng tỏa hương, che chở thôn Kon Pông (xã Đăk Ui, Quảng Ngãi) yên ả, thanh bình. Mái nhà rông thôn Kon Pông màu cỏ tranh uy nghi, sừng sững, bao bọc tình đoàn kết cho người Xơ Đăng. Già làng U Bra hay đi rẫy, để gặp ông phải hẹn, dặn trước mấy hôm. Ở tuổi 70, cơ bắp già làng vẫn rắn chắc, khỏe mạnh như thanh niên. Ông giải thích cơ bắp ấy là nhờ những ánh lửa lò rèn, năm tháng nện sắt. Bản thân Bra được cha truyền nghề rèn từ năm 20 tuổi. Sau đó được đi bộ đội, tham gia nhiều trận đánh ở Kon Tum (cũ), năm 1982 ông quay lại nghề rèn truyền thống. Ông Bra chọn nơi làm lều rèn đối diện với cửa nhà rông. Đây là vị trí mọi người trong thôn dễ nhìn thấy, cũng như tiện cho việc lui tới. Nơi làm việc của các thợ rèn chỉ là 4 cây cột, mái được lợp bằng các thanh lồ ô chẻ ra. Mái lều bằng lồ ô nhằm hạn chế bắt lửa, mát vô cùng. “6 thợ rèn sắt trong túp lều hơn chục mét vuông này. Người kẹp, người đập, người cạo gỉ sắt. Rồi người mài. Một người tôi thép, người thúc hơi, giữ lửa mấy ngày. Mỗi ngày cả nhóm thợ chỉ rèn được 5 món thôi. Một con dao, kiếm hồi đó đổi được cả một con heo lớn; 2 cái rìu sẽ đổi được một con dê”, ông Bra nhớ. Dắt tay phóng viên ngồi bên lò rèn, già làng giãi bày, với bản thân ông, nghề này không được giấu cho riêng mình mà phải chỉ cho tất cả mọi người. Bà con có con dao sắc, cuốc, cày tốt mới trồng được cây ngô, cây lúa trĩu quả. Vì theo ông Bra “Thần linh thương cho mình cách rèn, trí tuệ thì mình phải chia sẻ với người khác”. Bởi hơn cả, già làng lo lắng, trong thôn bây giờ chỉ có bản thân ông và mấy người nữa đã ngoài 70 nắm vững kỹ năng, lớp trẻ không tha thiết. Về cách làm một lò rèn, ông Bra chia sẻ, lò gồm có ba phần chính là ống thụt tạo hơi, ống dẫn hơi và lò nung. Khó nhất là việc đi tìm hai khúc gỗ đường kính khoảng 30cm, dài 60cm từ cây “loong me” trên rừng không bị mối mọt, nứt ở nhiệt độ cao. Mỗi khúc được khoét rỗng lòng để nối ống dẫn hơi. Hai cối bể này được chôn chắc chắn xuống đất, chỉ nhô lên chừng 40cm, giúp người ngồi thụt dễ dàng, tư thế thoải mái. Sau đó phải bắt hai con dê, lấy toàn bộ phần da chụp lên hai đầu cối, quấn chặt bằng dây rừng để hơi không thoát ra ngoài. “Hai con dê sau đó được thịt cho cả làng ăn để báo, mừng một lò rèn mới cho mọi người”, ông Bra hào hứng. Già làng bộc bạch, việc khó thứ hai là tìm đất sét làm ống dẫn hơi lò nung. Ống dẫn hơi được làm từ đất sét trắng lấy ở những chỗ có nước mạch, đất được nhào nhuyễn với trấu, sau đó bôi lên mặt ngoài lớp tro để chống nứt, rồi phơi trên giàn bếp thật khô. “Riêng lò nung quặng sắt được đắp bằng đất sét trắng, loại cao lanh. Đất này không sợ lửa, đốt càng lâu càng cứng. Đất này rất khó tìm, chỉ có một ít ở khe suối. Làm mấy ngày mới xong một lò này”, ông Bra cho biết. BÍ KÍP LUYỆN QUẶNG, TÔI SẮT Dưới ngọn núi gần thôn Wang H’ra là khe suối Ten Ré. Ông A Nuôi (tổ trưởng tổ rèn thôn Wang H’ra, xã Đăk Ui) 73 tuổi, bước chân đã chậm nhưng vẫn còn chắc chắn, bền bỉ. Ông đã làm bạn với con suối Ten Ré từ thuở nhỏ nên mọi ngóc ngách nơi đây ông nắm như lòng bàn tay. Ngày xưa quặng lộ thiên dọc con suối nên dễ lấy, giờ ông Nuôi phải dùng cuốc đào xuống vài mét mới tìm thấy quặng sắt. Những viên quặng nhỏ bằng đầu đũa rất cứng được ông lựa, bỏ vào gùi. Gùi ra suối, ông lấy sàng, đãi đất, lựa quặng. Quặng về phải được đốt lửa liên tục một ngày, một đêm. Nhiều người thay phiên nhau giữ lửa, những viên quặng sắt rắn chắc chảy ra, kết lại nhau. “Lúc nung quặng phải biết bỏ thêm lượng quặng vừa đủ, rồi thổi lửa mạnh. Những viên quặng chảy ra như nước, đổ vào khuôn, hoặc dùng búa tạ chặt để chia ra từng miếng dùng dần”, ông Nuôi nói. Để ra được mẻ sắt chất lượng, chất liệu quan trọng không kém chính là than từ cây “loong linh” và “loong pling” trong rừng. Ông Nuôi tiết lộ, loại than này dùng để luyện quặng vì nó tỏa ra lượng nhiệt lớn làm cho quặng nung chảy thành sắt. Còn than để rèn lại phải lấy từ cây “loong xa”, “loong rai”, khi đốt tỏa ra lượng nhiệt thấp hơn cho nên chỉ dùng cho việc rèn. Để làm ra các loại than ấy, lúc hạ cây xuống phải chặt ra sắp xếp lại một đống rồi chôn xuống đất, đốt lửa cho cháy âm ỉ dưới lớp đất, lá cây phủ lên trên. Vài hôm sau mới quay lại thu hoạch những thân cây đã chuyển màu đen xì. “Than phải hợp với sắt kiếm, dao mới tốt. Mọi thứ phải ăn khớp, một nhịp. Đặc biệt là khâu châm, dùi nước phải căn theo màu của sắt. Mình cũng phải nắm được tính chất của sắt để biết cách châm nước. Vật dụng mình làm ai cũng khen sắc, bền, dùng cả đời”, ông Nuôi bật mí. Nhìn mái nhà rông, ông Nuôi tâm sự, ngoài việc tôi bằng đất đỏ lên thân và lưỡi sản phẩm, người Xơ Đăng còn một “bí kíp” tôi đặc biệt, chỉ áp dụng kiếm hoặc các vật dụng quan trọng. Đó là dùng sừng trâu già tôi phần lưỡi. Việc này được làm sau khi cho sản phẩm rèn vào lò nung với độ nóng nhất định, rồi lấy ra, sau đó cầm sừng trâu chà lại nhiều lần ở phần lưỡi, nhằm giúp phần lưỡi sản phẩm được mịn, bền chắc và không bị nứt trong quá trình sử dụng.n “Bí kíp” rèn kiếm CỦA NGƯỜI XƠ ĐĂNG NGƯỜI DÂN XƠ ĐĂNG Ở KHU VỰC XÃ ĐĂK UI (QUẢNG NGÃI) CÒN NẮM GIỮ CÔNG THỨC LUYỆN QUẶNG, RÈN, TÔI SẮT BẰNG SỪNG TRÂU RẤT ĐẶC BIỆT. NHỮNG CÔNG CỤ BẰNG SẮT NHƯ DAO, QUỐC, NIẾC, ĐẶC BIỆT LÀ KIẾM, MÁC ĐƯỢC CHẾ TÁC RA KHÔNG CHỈ BỀN, MÀ CÒN VÔ CÙNG SẮC BÉN. TIỀN LÊ Ông A Nuôi thực hiện kỹ thuật tôi bằng sừng trâu Các thợ rèn lớn tuổi dạy nghề cho các em nhỏ Nghề rèn truyền thống của người Xơ Đăng ở xã Đăk Ui đóng góp cho sự phát triển du lịch làng nghề, trải nghiệm đối với địa phương. Các công cụ người Xơ Đăng tạo ra rất bền, sắc. Tuy nhiên, hiện nay nghề rèn của người Xơ Đăng đang dần bị mai một, bởi lẽ không cạnh tranh được với các hàng thủ công nghiệp hiện đại du nhập ồ ạt, giá rẻ. Ông U Bra và con dao do ông chế tác để sử dụng trong gia đình Ông A Nuôi đãi lấy quặng sắt siêu bền Ông Mai Văn Nhưng - Trưởng phòng Nghiệp vụ di tích (Bảo tàng tổng hợp tỉnh Quảng Ngãi) cho biết: Xơ Đăng là một trong những dân tộc thiểu số tại chỗ, sinh sống lâu đời ở Kon Tum (cũ), có 5 nhóm địa phương (Xơ Teng, Mơ Nâm, Ca Dong, Hà Lăng, Tơ Đrá). Người Xơ Đăng Tơ Đrá ở xã Đăk Ui, có truyền thống yêu nước và truyền thống cách mạng. Nên trong các cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ họ đóng công sức rất lớn, trong đó có nghề rèn (rèn công cụ lao động sản xuất và các loại vũ khí thô sơ). Đứng trước nguy cơ dần mai một, việc bảo tồn và phát huy nghề rèn của người Xơ Đăng là vấn đề cấp thiết, góp phần gìn giữ một di sản văn hóa vật thể và phi vật thể đang dần bị lãng quên. KỶ NGUYÊN VƯƠN MÌNH 37 www.tienphong.vn

RkJQdWJsaXNoZXIy MjM5MTU3OQ==