Báo Tiền Phong số đặc biệt/9 2/2025

KỶ NGUYÊN VƯƠN MÌNH của đột phá”cho thấy nhận thức rất rõ ràng và đúng đắn của Đảng ta về vai trò nền tảng, then chốt của pháp luật trong toàn bộ tiến trình phát triển đất nước. Cộng đồng doanh nghiệp – những chủ thể trực tiếp chịu tác động của hệ thống pháp luật, đánh giá rất cao tinh thần của Nghị quyết 66. Một hệ thống pháp luật ổn định, minh bạch, khả thi, có tính dự báo cao sẽ là yếu tố quyết định đến môi trường đầu tư, kinh doanh. Ngược lại, nếu pháp luật chồng chéo, mâu thuẫn, thay đổi bất ngờ, thiếu thực thi nhất quán thì sẽ làm gia tăng chi phí tuân thủ, tạo ra rủi ro pháp lý và cản trở sự phát triển bền vững của doanh nghiệp. Chúng tôi đặc biệt đồng tình với việc nghị quyết nhấn mạnh vai trò của khâu thi hành pháp luật – một điểm yếu lâu nay trong hệ thống quản trị quốc gia. Pháp luật dù tốt đến đâu mà không được thực thi nghiêm túc, đồng bộ thì cũng không thể phát huy hiệu quả. Do đó, việc đổi mới toàn diện từ khâu xây dựng đến thi hành pháp luật là hết sức cần thiết. Một điểm rất nổi bật nữa là nghị quyết khẳng định rõ quan điểm lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, là chủ thể trong quá trình xây dựng và thực thi pháp luật. Đây là một bước tiến lớn trong tư duy quản lý nhà nước, thể hiện rõ tinh thần“Nhân dân làm chủ”trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Về phía cộng đồng doanh nghiệp, khi thể chế được cải thiện theo hướng minh bạch, ổn định, cởi mở và thúc đẩy sáng tạo, chắc chắn sẽ có một dòng chảy rất lớn của nguồn lực được khơi thông: Từ trí tuệ, tài chính, công nghệ cho đến mô hình kinh doanh mới. Đây chính là cơ hội để doanh nghiệp Việt vươn lên mạnh mẽ, nâng cao năng lực cạnh tranh và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu. TS NGUYỄN VIẾT CHỨC, NGUYÊN PHÓ CHỦ NHIỆM ỦY BAN VĂN HÓA – GIÁO DỤC QUỐC HỘI: HÒA CÙNG SỨC MẠNH THỜI ĐẠI Công tác đối ngoại ở thời kỳ nào cũng rất quan trọng. Ngay cả trong thời kỳ kháng chiến trước đây, chúng ta cũng đẩy mạnh công tác đối ngoại. Như thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, dù kẻ thù là Đế quốc Mỹ, nhưng nhân dân Mỹ - những người yêu chuộng hoà bình - vẫn là bạn của chúng ta. Hiện nay, nước ta đang trong thời kỳ hội nhập sâu rộng vào nền chính trị thế giới, nền kinh tế toàn cầu, nền văn minh nhân loại, thì công tác đối ngoại càng đóng vai trò quan trọng. Trong bối cảnh mới, Nghị quyết 59 của Bộ Chính trị đã nắm bắt được dòng chảy của sức mạnh thời đại và“nâng tầm” hội nhập quốc tế, quán triệt những quan điểm mang tính cách mạng, tính đột phá, tính dân tộc, tính khoa học, tính thời đại cao. Nghị quyết xác định hội nhập là động lực chiến lược để Việt Nam vững bước vào kỷ nguyên mới. Công tác đối ngoại có vị trí rất quan trọng, là “cầu nối” chúng ta với thế giới. Trong quan hệ quốc tế, Việt Nam luôn kiên trì nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ; là bạn bè tốt, là đối tác tin cậy của các nước và là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, đóng góp tích cực vào nỗ lực chung, hướng đến một tương lai tốt đẹp hơn cho khu vực và thế giới. Thời gian qua, chúng ta đón tiếp rất nhiều nguyên thủ các nước đến thăm, làm việc. Việt Nam có câu “đất lành chim đậu”. Rõ ràng, họ đến Việt Nam để kết nối, để nâng tầm mối quan hệ, nâng cao tiềm năng hợp tác; khẳng định, đất nước ta trở thành một điểm đến rất hứa hẹn, rất tốt đẹp. Thông qua các mối quan hệ đó, Việt Nam tiếp tục khẳng định đường lối đối ngoại của mình, và luôn được các quốc gia trong cộng đồng quốc tế hoan nghênh, ủng hộ; tạo ra nhiều cơ hội hợp tác, phát triển. Thế giới hiện nay là thế giới kết nối, hợp tác, khoa học công nghệ biến đổi từng ngày, từng giờ. Trong thế giới hiện nay, không ai có khả năng làm được tất cả, mà phải phối hợp, hợp tác với nhau. Muốn đi xa, phát triển bền vững thì phải đi cùng nhau, phải cùng bước với nhân loại, không thể đi một mình. n KẾT NỐI, MỞ ĐƯỜNG Năm 2025, đánh dấu một bước chuyển quan trọng trong định hướng chiến lược phát triển khi Đảng và Nhà nước xác lập “bộ tứ trụ cột” làm nền tảng để đất nước cất cánh. Điểm nổi bật của “bộ tứ trụ cột” được các chuyên gia chỉ ra là mối quan hệ chặt chẽ, bổ trợ lẫn nhau trong việc tạo lập môi trường thể chế thuận lợi, thông suốt và hiện đại. Theo các chuyên gia, Nghị quyết 57 như là “động cơ tăng tốc”, bởi khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số chính là động lực quyết định để nền kinh tế bứt phá, nâng cao năng suất và năng lực cạnh tranh. Nghị quyết 59 mở rộng không gian phát triển thông qua hội nhập quốc tế sâu rộng. Nghị quyết 66 đảm bảo hành lang pháp lý minh bạch, đồng bộ, khả thi và hiệu lực thi hành cao. Và Nghị quyết 68 giải phóng và phát huy tiềm năng to lớn của khu vực kinh tế tư nhân, biến nó thành một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế. Nhìn nhận về bốn nghị quyết đột phá chiến lược, GS.TS. Phạm Văn Đức, nguyên Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam cho rằng, đây chính là nền tảng để tháo gỡ các điểm nghẽn, khơi thông nguồn lực và phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế, qua đó tạo môi trường thuận lợi cho tăng trưởng nhanh, bền vững. Đánh giá bước chuyển quan trọng trong định hướng chiến lược thể chế khi Đảng và Nhà nước xác lập “bộ tứ trụ cột” làm nền tảng thúc đẩy tăng trưởng giai đoạn 2026-2030 và tầm nhìn đến 2045, theo TS. Phạm Anh Tuấn, Phó Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam và Thế giới, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam, Nghị quyết 66 được xem là trụ cột thể chế, đóng vai trò dẫn dắt ba trụ cột còn lại. Mục tiêu nghị quyết hướng đến là hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đảm bảo quyền tự do kinh doanh, sở hữu tài sản, phân bổ nguồn lực theo cơ chế thị trường và nâng cao hiệu lực, hiệu quả của quản trị công. Tuy nhiên, để biến nghị quyết thành hiện thực sống động trong đời sống xã hội, các chuyên gia cho rằng, cần xây dựng các chương trình hành động cấp quốc gia, lồng ghép các mục tiêu của từng nghị quyết vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hằng năm và 5 năm của từng bộ, ngành, địa phương. Đặc biệt, cần phân định rõ trách nhiệm chủ trì và phối hợp, gắn với cơ chế giám sát, đánh giá kết quả thực hiện theo tiêu chí đầu ra. XÂY QUỐC GIA HÙNG CƯỜNG Trong bối cảnh các yếu tố truyền thống như vốn đầu tư và lao động giá rẻ đang dần suy giảm hiệu quả biên, TS. Phạm Anh Tuấn cho rằng, cải cách thể chế không chỉ là điều kiện cần, mà là động lực nội sinh để khơi thông các lực kéo tăng trưởng mới. Theo ông, cần có một chương trình cải cách thể chế toàn diện, đặt trọng tâm vào ba trụ cột: Tính minh bạch và khả năng dự báo của chính sách, năng lực thực thi và phối hợp liên ngành, và cơ chế kiểm soát quyền lực, giám sát độc lập. Đặc biệt cần hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng thống nhất, loại bỏ chồng chéo, giảm thiểu “rủi ro pháp lý” cho doanh nghiệp, nhất là trong các lĩnh vực cốt lõi như đất đai, tài chính công, đầu tư công và sở hữu trí tuệ. Ông Tuấn cũng lưu ý, thể chế cần có khả năng thích ứng linh hoạt với các yêu cầu của kinh tế số, chuyển đổi xanh và hội nhập sâu rộng. “Điều này đòi hỏi thể chế kinh tế Việt Nam không chỉ cải cách theo chiều rộng mà phải nâng cấp theo chiều sâu - tức là chuyển từ thể chế kiểm soát sang thể chế kiến tạo phát triển, từ cơ chế xin - cho sang bảo đảm quyền tiếp cận bình đẳng, từ can thiệp hành chính sang điều tiết thông minh dựa trên dữ liệu và bằng chứng”, theo Phó Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam và Thế giới. Ông đồng thời lưu ý việc hoàn thiện thể chế về đổi mới sáng tạo theo hướng minh bạch, ổn định và khuyến khích rủi ro sáng tạo, bao gồm khung pháp lý cho sandbox công nghệ, sở hữu trí tuệ, dữ liệu số và công nghệ xuyên biên giới. GS. Vũ Minh Khương, giảng viên Trường Chính sách công Lý Quang Diệu, Đại học Quốc gia Singapore cho rằng, cải cách thể chế không chỉ là một đột phá chiến lược, mà còn là yêu cầu sống còn để Việt Nam vượt khỏi quỹ đạo tăng trưởng thấp, thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình, và tiến nhanh tới mục tiêu trở thành quốc gia phát triển vào năm 2045. Khác với chặng đường “Đổi mới I”, theo ông, bước vào giai đoạn “Đổi mới II”, để cải cách thể chế thực sự trở thành động lực chủ đạo đưa Việt Nam vào quỹ đạo phát triển nhanh, bền vững và tự cường trong bối cảnh thế giới nhiều biến động cần tiến hành sự bàn định sâu rộng nhằm xác định rõ các trọng tâm ưu tiên.“Những trọng tâm này, không chỉ mang lại những đột phá mạnh mẽ với kết quả cụ thể thấy ngay, mà còn phải đặt nền móng chiến lược vững chắc cho tầm nhìn dài hạn và năng lực phát triển nội sinh bền vững”, GS. Vũ Minh Khương chia sẻ. Từ thể chế, khoa học công nghệ, hội nhập quốc tế cho đến sức bật của kinh tế tư nhân, “bộ tứ trụ cột” đang mở ra con đường phát triển đầy triển vọng. Nếu quyết tâm chính trị được chuyển hóa thành hành động mạnh mẽ và nhất quán, Việt Nam hoàn toàn có thể biến khát vọng 2045 thành hiện thực - một quốc gia phát triển, hùng cường, thịnh vượng. n vừa là động lực “BỘ TỨ TRỤ CỘT” THUỘC CÁC LĨNH VỰC KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ, HỘI NHẬP QUỐC TẾ, XÂY DỰNG PHÁP LUẬT VÀ KINH TẾ TƯ NHÂN ĐƯỢC ĐẢNG BAN HÀNH VỪA QUA LÀ NỀN TẢNG ĐỂ ĐẤT NƯỚC PHÁT TRIỂN NHANH, BỀN VỮNG, TỰ CƯỜNG VÀ HIỆN THỰC MỤC TIÊU TRỞ THÀNH NƯỚC PHÁT TRIỂN CÓ THU NHẬP CAO VÀO NĂM 2045. VĂN KIÊN Theo các chuyên gia, Nghị quyết 57 như là “động cơ tăng tốc”, bởi khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số chính là động lực quyết định để nền kinh tế bứt phá, nâng cao năng suất và năng lực cạnh tranh. Nghị quyết 59 mở rộng không gian phát triển thông qua hội nhập quốc tế sâu rộng. Nghị quyết 66 đảm bảo hành lang pháp lý minh bạch, đồng bộ, khả thi và hiệu lực thi hành cao. Nghị quyết 68 giải phóng và phát huy tiềm năng to lớn của khu vực kinh tế tư nhân, biến nó thành một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế. VỪA LÀ NỀN TẢNG, Hoạt động nghiên cứu đào tạo tại Trường Đại học Phenikaa Hà Nội ẢNH: TRƯƠNG ANH 19 www.tienphong.vn

RkJQdWJsaXNoZXIy MjM5MTU3OQ==