06 07 08 10 13 Cách mạng Tháng Tám thành công đã đập tan xiềng xích nô lệ gần 100 năm của thực dân Pháp, đánh đuổi phát xít Nhật, lật đổ chế độ phong kiến tồn tại hàng nghìn năm, đưa đất nước ta bước sang kỷ nguyên mới - kỷ nguyên Độc lập, Tự do và đi lên chủ nghĩa xã hội; Nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ; Đảng ta trở thành chính đảng cầm quyền, lãnh đạo dựng xây đất nước. Áng văn bất hủ Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định điều đó trước toàn thế giới. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện thực tiễn cách mạng Việt Nam, cùng sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Đó là kết quả của quá trình đấu tranh bền bỉ, kiên cường, bất khuất của Nhân dân ta. Đó là sự cộng hưởng sức mạnh của khối đại đoàn kết, của lòng yêu nước, ý chí quật cường, bản lĩnh, trí tuệ và khát vọng vươn lên mạnh mẽ của cả dân tộc, cùng niềm tin mãnh liệt vào con đường cách mạng mà Đảng, Bác Hồ đã lựa chọn. Đó là thắng lợi được kết tinh từ tinh thần quốc tế trong sáng, của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại. Để bảo vệ thành quả cách mạng, Nhân dân ta lại phải bước vào cuộc kháng chiến trường kì suốt 30 năm đầy gian khổ, hy sinh nhưng vô cùng vẻ vang, đánh đuổi thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, làm nên Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954 “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” và Đại thắng mùa Xuân năm 1975, thống nhất “non sông thu về một mối”. Tám mươi năm trôi qua, Việt Nam đã đi một chặng đường dài - từ một đất nước nghèo nàn, hoang tàn, đổ nát sau chiến tranh, trở thành một nền kinh tế năng động, hòa nhập sâu rộng, toàn diện với thế giới. Bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc với khát vọng về một Việt Nam cường thịnh và hùng cường, nhiều cơ hội lớn đang mở ra và không ít thách thức đang chờ đợi. Chính lúc này, hào khí 19/8 vẫn luôn là cội nguồn sức mạnh để mỗi con dân đất Việt tự hào, tự tin, tự chủ, tự cường bước tới. Khát vọng vì một Việt Nam hùng cường không chỉ là ước mơ, nó đang từng bước hiện thực hóa. Đó là, xây dựng một xã hội Dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ và văn minh. Trong Hội nghị triển khai 4 Nghị quyết (Nghị quyết 57; 59; 66; 68) của Trung ương Đảng (18/5/2025), Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh đây là “bộ tứ trụ cột” vừa là nền tảng, vừa là động lực để Việt Nam cất cánh. Tổng Bí thư kêu gọi toàn hệ thống chính trị, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân hãy chung tay, đồng lòng, vượt qua mọi khó khăn, biến khát vọng thành hành động, biến tiềm năng thành sức mạnh thực tế, để cùng nhau đưa đất nước ta bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên phát triển, thịnh vượng, hùng cường của dân tộc Việt Nam. Cả dân tộc Việt Nam, triệu người như một, đang cùng nhau thắp lên ngọn lửa Đổi mới - Khát vọng - Hành động, vì một Việt Nam giàu mạnh, phồn vinh. TP VÌ MỘT VIỆT NAM HÙNG CƯỜNG n Thiết kế bìa: Công ty cổ phần Emera- Nguyễn Đình Đề CHỌN NGƯỜI “GÁNH VÁC” SỨ MỆNH LỚN LAO BỐN TRỤ CỘT, MỘT TƯƠNG LAI TRONG SỐ NÀY 04 18 68 30 34 37 39 41 45 48 55 58 60 62 66 71 73 Từ bến nhà Rồng đến một dải non sông Đến mới hiểu Trường Sa Bộ kèn đồng hòa tấu bài Quốc ca trong lễ Tuyên ngôn độc lập Tổ quốc nhìn từ những cột cờ chủ quyền Thăm nhà máy in tiền đầu tiên của Việt Nam 14 16 20 Người giữ bộ tem báu vật về Bác Hồ, Hoàng Sa và Trường Sa Người vẽ tiền ghi dấu lại lịch sử qua từng thời kỳ Kinh tế tư nhân sẽ là nhân tố đột phá 22 24 25 28 “Nối mạch” cho ngành bán dẫn Việt vươn xa Tiên phong, gương mẫu vươn mình xứng tầm Thủ đô Chìa khóa để siêu đô thị TPHCM vươn mình Trung tâm tài chính Quốc tế TPHCM: Sẵn sàng đón “đại bàng” Chuyện cùng “lưỡng quốc giáo sư” Phạm Ngọc Thành Hành trình đưa Yên Tử trở thành di sản của nhân loại: Chuyện giờ mới kể “Bí kíp” rèn kiếm siêu bền của người Xơ Đăng Kỷ vật Bác Hồ tặng xứ Tiêu Nồng Vĩnh Kim AI và bài toán nhân sự cao cấp Giấc mơ mang dáng hình Tổ quốc Làm sống lại lịch sử bằng AI Hiện thực giấc mơ metro cho siêu đô thị Có một biểu tượng uy danh của lực lượng hình sự Thủ đô Từ cậu học trò nghèo đến nhà khoa học Top 0,5% thế giới Người trẻ Việt viết giấc mơ xanh Một ngày ở tòa nhà Quốc hội Úc Gặp lại chiến sĩ có nụ cười “chiến thắng” Hưng Yên vươn mình, hướng ra biển BƯỚC NGOẶT THỜI ĐẠI CỦA ĐIỆN ẢNH CHIẾN TRANH n Tổng Biên tập: PHÙNG CÔNG SƯỞNG n Phó Tổng Biên tập: LÊ MINH TOẢN n Tổ chức, biên tập: MINH TOẢN n Mỹ thuật: KIỀU TÚ n Tòa soạn: 15 HỒ XUÂN HƯƠNG - HÀ NỘI | Tel: (024) 39439664 n Phát hành: Hà Nội: 0908988666 (NGUYỄN HẰNG) | Fax: (024) 39430693 TP Hồ Chí Minh: (028) 3469860 | Fax: (028) 38480015 n Chế bản tại: BÁO TIỀN PHONG n In tại CTY TNHH MỘT THÀNH VIÊN IN QUÂN ĐỘI 1 GIÁ: 90.000 ĐỒNG www.tienphong.vn OAI HÙNG TÂY TIẾN NĂM XƯA ẤY 42
RẠNG RỠ VIỆT NAM 4 www.tienphong.vn BÀI HỌC TỪ NHỮNG NGƯỜI MỞ LỐI Năm 1986, khi đất nước chìm trong khủng hoảng kinh tế – xã hội, đội ngũ lãnh đạo của Đảng đã mạnh dạn bước qua tư duy cũ, dám nghĩ, dám làm, đề ra đường lối đổi mới, tạo bước ngoặt cho sự phát triển đất nước. Đó là Tổng Bí thư Trường Chinh, với bước ngoặt “viết lại báo cáo chính trị”, mở đường cho nhận thức mới về nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Tại Đại hội VI của Đảng, lời hiệu triệu “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” của Tổng Bí thư Trường Chinh vang lên ở hội trường Ba Đình đã tạo tiền đề để hình thành ra đường lối đổi mới, dần đưa đất nước vượt qua khó khăn, khủng hoảng. Trong khi đó, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, với “những việc cần làm ngay”, đã khởi xướng các cải cách mạnh mẽ việc tháo gỡ rào cản cơ chế, giải phóng sức sản xuất, mở rộng quyền tự chủ cho cơ sở, thí điểm và củng cố các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, xây dựng cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, mở rộng đối ngoại và chủ động hội nhập quốc tế. Những quyết sách này đã đưa nông nghiệp từ tập trung sang khoán hộ, kinh tế từ bao cấp sang thị trường, đất nước từ đóng cửa sang hội nhập. Và đó còn có Thủ tướng Võ Văn Kiệt- người được dân yêu quý gọi bằng những biệt danh như: “Chủ tịch gạo”, “Bí thư xé rào”, luôn tìm cách phá bỏ rào cản để đáp ứng nhu cầu cấp bách của đời sống và sản xuất. Trên cương vị Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, rồi Thủ tướng Chính phủ, ông chỉ đạo khởi công hệ thống đường dây tải điện 500kV Bắc – Nam, cũng như hàng loạt dự án thủy điện, mở rộng quan hệ ngoại giao với Liên minh châu Âu, ASEAN, bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ. Theo các chuyên gia, ba nhà lãnh đạo trên, không chỉ là những nhà điều hành bộ máy; họ là kiến trúc sư của một thời kỳ lịch sử, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám hành động vì lợi ích của Đảng, của đất nước và của Nhân dân. Tất cả đã đặt nền móng cho công cuộc Đổi mới lần thứ nhất, đưa Việt Nam thoát khỏi cơ chế bao cấp, bước vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kết quả, từ một nền kinh tế lạc hậu, thiếu lương thực, thực phẩm, sau 40 năm đổi mới, quy mô nền kinh tế Việt Nam (năm 2024) đã đạt trên 470 tỷ USD, đứng thứ 32 thế giới và nằm trong nhóm 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại và thu hút đầu tư nước ngoài. NÂNG TẦM CÁN BỘ TRONG KỶ NGUYÊN MỚI Bốn mươi năm sau Đổi mới 1986, Đại hội XIV của Đảng được xác định là đại hội lịch sử, đánh dấu Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển mới, với khát vọng trở thành quốc gia phát triển, thu nhập cao. Để hiện thực hóa khát vọng ấy, theo các chuyên gia, đất nước cần một thế hệ cán bộ đủ tâm, đủ tầm, đủ bản lĩnh để kiến tạo sự phát triển. Theo GS-TSKH Phan Xuân Sơn, nguyên Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương, nhân sự là yếu tố hết sức quan trọng của mỗi kỳ đại hội. “Mọi việc to nhỏ, thực hiện tốt hay kém đều là do cán bộ tốt hay xấu. Đường lối có đổi mới đến mấy chất lượng đến mấy nữa cũng mới chỉ là tư duy thôi, nhưng không có người thực hiện thì cái đổi mới đó cũng chỉ nằm trên giấy thôi. Cho nên, nhân sự Đại hội Đảng là rất quan trọng”, ông Sơn nói. Tại Hội nghị Trung ương 12, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh, phương hướng công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương khóa XIV là nội dung đặc biệt hệ trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến thành bại của toàn bộ nhiệm kỳ tới. Theo Tổng Bí thư, công tác cán bộ là khâu “then chốt của then chốt”; vì vậy, công tác chuẩn bị nhân sự Đại hội XIV của Đảng cần phải tiến hành một cách đồng bộ, khoa học, bài bản, chặt chẽ, dân chủ, khách quan, minh bạch. Việc giới thiệu, lựa chọn nhân sự phải căn cứ vào tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định, nhìn chung dựa trên cơ sở quy hoạch nhưng không quá cứng nhắc mà cần phải căn cứ vào thực tiễn cụ thể để xem xét, không bỏ sót những nhân tố ngoài quy hoạch nhưng có phẩm chất, năng lực lãnh đạo nổi trội, đáp ứng tốt nhất yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng trong giai đoạn mới. Đồng thời, Tổng Bí thư nhấn mạnh phải có giải pháp, biện pháp hiệu quả để hạn chế, sớm khắc phục tình trạng nhân sự vừa được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng hoặc mới được quy hoạch, bổ nhiệm đã phải xem xét kiểm điểm, xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự. Ông Nguyễn Tiến Dĩnh, nguyên Thứ trưởng Bộ Nội vụ, trong thời kỳ chuyển động nhanh, rất nhanh của khoa học, công nghệ, đòi hỏi đội ngũ cán bộ cấp chiến lược phải là những người có khả năng thích ứng, đổi mới tư duy, triển khai công việc với hiệu quả thực sự. Vì vậy, việc lựa chọn cán bộ cho nhiệm kỳ tới phải dựa vào sản phẩm công việc, vào kết quả cụ thể, chứ không thể dựa vào cảm tính hay các yếu tố hình thức. Đây chính là cách để nâng tầm công tác cán bộ, góp phần quyết định thành công cho nhiệm kỳ mới của Đảng và sự phát triển của đất nước. Để đất nước hiện thực hóa được các mục tiêu trong kỷ nguyên mới GS Vũ Minh Khương, Trường Chính sách công Lý Quang Diệu, Đại học Quốc gia Singapore, Nguyên thành viên Tổ Tư vấn kinh tế của Thủ tướng Chính phủ cho rằng cần ưu tiên tuyển dụng và phát triển đội ngũ công vụ chuyên nghiệp, thực tài và tận tâm; nuôi dưỡng văn hóa đổi mới, tinh thần trách nhiệm, đồng đội và lãnh đạo kiến tạo. Đại hội XIV là cột mốc bản lề để đưa Việt Nam bước vào quỹ đạo phát triển nhanh và bền vững. Để biến khát vọng hùng cường thành hiện thực, đất nước cần một thế hệ cán bộ, những người không chỉ là người thực thi nghị quyết, mà là kiến trúc sư của từng địa phương, từng lĩnh vực. Bài học từ tinh thần đổi mới, dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới tư duy và hành động của các nhà lãnh đạo như Trường Chinh, Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt là những gợi mở thiết thực cho Đảng trong việc xem xét lựa chọn đội ngũ cán bộ gánh vác trách nhiệm trong kỷ nguyên mới. n TỪ NHỮNG “KIẾN TRÚC SƯ” MỞ ĐƯỜNG, CŨNG NHƯ THỰC HIỆN CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI 1986, VIỆT NAM KHÔNG CHỈ VƯỢT QUA KHỦNG HOẢNG MÀ CÒN BƯỚC VÀO QUỸ ĐẠO PHÁT TRIỂN, GÂY DỰNG ĐƯỢC CƠ ĐỒ, VỊ THẾ TRÊN TRƯỜNG QUỐC TẾ... NAY, TRƯỚC NGƯỠNG CỬA KỶ NGUYÊN MỚI, ĐẤT NƯỚC CŨNG CẦN ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CẤP CHIẾN LƯỢC ĐỦ TẦM, ĐỦ TÂM, AM HIỂU KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀ SỨC MẠNH THỜI ĐẠI ĐỂ GÁNH VÁC SỨ MỆNH ĐƯA ĐẤT NƯỚC ĐẾN HÙNG CƯỜNG, THỊNH VƯỢNG. VĂN KIÊN Tổng Bí thư Tô Lâm dự triển lãm “Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh - Cuộc đời và sự nghiệp” ngày 29/6 ẢNH: NHANDAN.VN Tại sự kiện gặp mặt đại biểu cán bộ lão thành cách mạng, tiền khởi nghĩa; Mẹ Việt Nam anh hùng; tướng lĩnh, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân ngày 31/7, Tổng Bí thư Tô Lâm cho biết: Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa 14 sẽ gồm 200 ủy viên, trong đó 180 ủy viên chính thức, 20 ủy viên dự khuyết. Bộ Chính trị khóa 14 sẽ có từ 17-19 ủy viên, Ban Bí thư sẽ duy trì từ 11-13 ủy viên. Tỷ lệ ủy viên Ban Chấp hành Trung ương cả chính thức và dự khuyết với dự kiến cán bộ trẻ dưới 47 tuổi trên 10%, cán bộ nữ 10-12%, cán bộ người dân tộc thiểu số 10-12%. Tổng Bí thư cho rằng những cán bộ được lựa chọn phải thật sự tiêu biểu, trong sạch, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám hy sinh lợi ích cá nhân, vì lợi ích chung, đặt lợi ích tập thể, lợi ích nhân dân, lợi ích quốc gia trên hết... Chọn người SỨ MỆNH LỚN LAO “GÁNH VÁC”
QUYẾT TÂM, QUYẾT ĐOÁN Ở tuổi 75, TS Phan Hữu Thắng, nguyên Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nay là Bộ Tài chính – PV) vẫn toát lên nguồn năng lượng dồi dào khi nhắc đến câu chuyện thu hút FDI, lĩnh vực gắn bó cả sự nghiệp của ông. Trong căn phòng làm việc gọn gàng, biểu đồ dòng vốn FDI vào Việt Nam giai đoạn trước được đóng khung treo kín tường, tái hiện những dấu mốc sống động của dòng chảy vốn ngoại. Những bức hình kỷ niệm thời còn công tác, gắn liền với đầu tư nước ngoài của ông cũng được trưng bày trang trọng. Từ những khởi đầu ấy, câu chuyện về hành trình gần 40 năm thu hút FDI, đã đưa Việt Nam vào nhóm 15 quốc gia đang phát triển có sức hút vốn đầu tư lớn nhất thế giới dần được gợi mở. Đến nay, FDI không chỉ là nguồn vốn, mà còn mang đến công nghệ, cơ hội việc làm và góp phần nâng cao năng lực sản xuất của đất nước. TS Phan Hữu Thắng kể, sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước năm 1975, lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước đã tính đến việc sử dụng nguồn vốn đầu tư nước ngoài, trong bối cảnh sau chiến tranh ngân sách nhà nước eo hẹp, cơ sở hạ tầng của nền kinh tế đã bị tàn phá nặng nề. Từ văn bản đầu tiên thể chế hóa đường lối kinh tế đối ngoại – Điều lệ về Đầu tư nước ngoài (năm 1977) đến Luật Đầu tư nước ngoài (năm 1987), có thể xem là chặng đường của những bước khởi đầu mới mẻ nhưng quyết đoán. Tiếp tục chặng đường ấy, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 liên tục được sửa đổi, bổ sung với nhiều cấp độ khác nhau vào các năm 1990, 1992, 1996, 2000, 2005, 2014 và 2020. Qua từng lần điều chỉnh, đạo luật được cộng đồng quốc tế đánh giá là ngày càng thông thoáng, hấp dẫn, và phù hợp với thông lệ quốc tế. Chính sự cải cách liên tục ấy đã giúp Việt Nam xây dựng môi trường đầu tư minh bạch, ổn định. Luật đã có, và kế hoạch 5 năm đầu tiên (1991–1995) đặt ra chỉ là chỉ thu hút khoảng 2 tỷ USD vốn FDI, là con số rất khiêm tốn so với hàng chục tỷ USD mỗi năm của giai đoạn hiện nay, nhưng là bước khởi đầu quan trọng. “Nếu đặt lại bối cảnh thời điểm đó, mới thấy rõ sự khó khăn, và vì thế một dự án đầu tư quy mô lớn được cấp phép khi ấy là sự kiện đặc biệt, cả Chính phủ cùng vào cuộc,” ông nói và dẫn chứng về dự án của Tập đoàn Intel. Cuối năm 2006, Intel chính thức nhận giấy phép đầu tư dự án 1 tỷ USD. Sau cú hích Intel, nhiều tập đoàn công nghệ đã vào Việt Nam. Ngày nay, khu công nghiệp đã hiện diện ở hầu hết các tỉnh, thành trong cả nước, với số lượng, quy mô và nguồn vốn đến từ nhiều nhà đầu tư khác nhau. Tuy nhiên, dự án khu công nghiệp Nomura tại Hải Phòng – khu công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đầu tiên ở miền Bắc, vẫn là một trong những bước đi ban đầu khó quên với lãnh đạo Cục Đầu tư nước ngoài khi ấy. Với vai trò hiện tại là Chủ tịch Liên chi hội Tài chính Khu công nghiệp Việt Nam, TS Phan Hữu Thắng bật cười khi nhớ lại, vào những năm 1980, ông và các cộng sự khi ấy còn chưa từng hình dung, thậm chí hoàn toàn chưa có khái niệm về khu công nghiệp. Khi đó, ông phải sang Singapore, Đài Loan để tận mắt học hỏi mô hình, để rồi mang những kinh nghiệm ấy về Việt Nam, khu công nghiệp là một không gian sản xuất hiện đại, sạch sẽ, quy củ, có nhà máy, hạ tầng và dịch vụ đồng bộ. Việc Nomura vào đầu tư khiến Chính phủ và các bộ, ngành khẩn trương vào cuộc, cùng nhà đầu tư tháo gỡ vướng mắc, tìm tiếng nói chung cho những yêu cầu đặt ra. Đây là minh chứng rõ nét cho một giai đoạn Việt Nam còn nhiều bỡ ngỡ, nhưng đã thể hiện quyết tâm lớn trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài. VỊ THẾ SAU GẦN 4 THẬP KỶ VÀ BÀI TOÁN ĐI ĐỀU 2 CHÂN Từ 2 tỷ USD thuở đầu, đến hết năm 2024, theo số liệu từ Bộ Tài chính, tổng vốn nước ngoài FDI đăng ký vào Việt Nam đạt gần 502,8 tỷ USD, trong đó vốn thực hiện đạt gần 322,5 tỷ USD. Trong khi đó, lũy kế đến cuối 2024, cả nước có khoảng 1.825 dự án đầu tư ra nước ngoài với tổng vốn đăng ký hơn 22,59 tỷ USD. Hiện nay, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài (OFDI) của Việt Nam vẫn khiêm tốn, tập trung chủ yếu ở khai khoáng, dầu khí, viễn thông (Viettel tại châu Phi, Lào, Myanmar…) và một số ít doanh nghiệp lớn như Vinamilk, FPT, Hoàng Anh Gia Lai. Một vài thành công bước đầu đã chứng minh tiềm năng: Vinamilk đầu tư trang trại tại Nga, Viettel mở rộng nhiều thị trường mới nổi, FPT vươn ra toàn cầu trong lĩnh vực công nghệ. Tuy nhiên, số lượng dự án như vậy còn quá ít so với hàng trăm nghìn doanh nghiệp tư nhân trong nước – quy mô nhỏ, siêu nhỏ, hạn chế về tài chính và công nghệ. Đầu tư ra nước ngoài giúp doanh nghiệp mở rộng thị trường, học hỏi công nghệ, đồng thời khẳng định thương hiệu Việt trên bản đồ kinh tế thế giới. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vướng mắc: khung pháp lý chưa hoàn thiện, thủ tục chuyển vốn – chuyển lợi nhuận về nước còn phức tạp, thiếu hỗ trợ tài chính và cơ chế khuyến khích rõ ràng. TS Phan Hữu Thắng cho rằng, nhiều năm qua, khi nói đến đầu tư nước ngoài, phần chủ yếu được nhắc đến là FDI - dòng vốn ngoại vào Việt Nam. Tuy nhiên, đã đến lúc cần nhìn lại một thành phần quan trọng không kém là OFDI của các doanh nghiệp Việt Nam. Nếu chỉ dựa vào một chân, tức FDI, thì nền kinh tế sẽ thiếu cân bằng, mất cơ hội và phụ thuộc nhiều vào đối tác. Thực tiễn cho thấy, các nền kinh tế từng trải qua giai đoạn khó khăn như Nhật Bản, Hàn Quốc đều chủ động đưa doanh nghiệp ra ngoài tìm kiếm hợp đồng, mở rộng thị trường và học hỏi công nghệ. Từ lĩnh vực xây dựng, công nghệ cho tới công nghiệp chế tạo, việc “đi ra ngoài” đã giúp họ tích lũy kinh nghiệm, vốn và năng lực cạnh tranh. Việt Nam cũng cần đi theo con đường này, nhất là trong bối cảnh hội nhập sâu rộng và tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do. Giai đoạn tới, theo ông Thắng, Việt Nam cần một chương trình tổng thể rà soát thành công – thất bại của OFDI, tháo gỡ nút thắt về chính sách, và có cơ chế chọn lọc – hỗ trợ doanh nghiệp đủ năng lực tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Khuyến nghị chiến lược ngắn – trung hạn (đến năm 2030), TS Phan Hữu Thắng đề xuất ưu tiên hỗ trợ các dự án công nghệ, R&D, chuỗi cung ứng toàn cầu và dịch vụ, thay cho OFDI dựa vào tài nguyên. Doanh nghiệp cần được khuyến khích liên minh, liên doanh, M&A (mua bán & sáp nhập) ra nước ngoài; đồng thời Nhà nước xem xét lập quỹ hỗ trợ hoặc bảo hiểm rủi ro chính trị/tài chính cho nhà đầu tư. Xác định tầm nhìn dài hạn (đến năm 2045), mục tiêu tập trung xây dựng một số tập đoàn Việt Nam thành “nhà đầu tư toàn cầu” trong năng lượng sạch, viễn thông, công nghệ, logistics. OFDI sẽ chuyển từ khai khoáng, nông nghiệp sang công nghệ cao, tài chính xuyên biên giới, năng lượng tái tạo, sản xuất giá trị gia tăng. Hệ sinh thái hỗ trợ toàn diện cần được hình thành, từ pháp luật, quỹ, thương vụ, đại sứ quán đến nhân lực và khởi nghiệp. Đồng thời, đánh giá OFDI phải dựa vào chất lượng, như tỷ trọng đầu tư công nghệ, dịch vụ đến 2030 và số tập đoàn Việt có doanh thu quốc tế trên 1 tỷ USD vào 2045. n TS PHAN HỮU THẮNG NÓI, NẾU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 GIÚP VIỆT NAM GIÀNH ĐƯỢC CHỦ QUYỀN DÂN TỘC, THÌ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI) TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI VÀ HỘI NHẬP LÀ BIỂU TƯỢNG CHO VIỆC KHẲNG ĐỊNH CHỦ QUYỀN KINH TẾ CỦA VIỆT NAM TRONG MỘT THẾ GIỚI TOÀN CẦU HÓA. BƯỚC VÀO KỶ NGUYÊN MỚI, BẰNG “ĐÔI CHÂN” ĐẦU TƯ, VIỆT NAM CÓ THỂ VƯƠN MÌNH RA THẾ GIỚI. VIỆT LINH Hội nghị trao đổi kinh nghiệm liên doanh với nước ngoài năm 1996 Từ những ngày "dò đường" ĐẾN KỶ NGUYÊN MỚI “Việt Nam cần đi bằng cả hai chân đầu tư FDI & OFDI, bằng đôi chân đầu tư vươn mình ra thế giới, xây dựng thành công một Việt Nam hùng cường, có nền kinh tế tự chủ, độc lập không phụ thuộc vào bất kỳ đối tác nào trên thế giới, không bị chao đảo trong bất kỳ bối cảnh địa chính trị nào”. TS PHAN HỮU THẮNG RẠNG RỠ VIỆT NAM 5 www.tienphong.vn
Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập ẢNH: TTXVN NHỮNG THỜI ĐIỂM LỊCH SỬ NĂM 1945 19/8 28/8 30/8 2/9/1945 Lực lượng cách mạng giành chính quyền thắng lợi tại Hà Nội Chính quyền trên toàn quốc về tay nhân dân Vua Bảo Đại thoái vị, bộ máy phong kiến và tay sai sụp đổ hoàn toàn Tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tuyên bố với cả thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể nhân dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”. TỪ THÂN PHẬN NÔ LỆ TRỞ THÀNH NGƯỜI LÀM CHỦ Ngày 5/6/1911, từ Bến Nhà Rồng - Cảng Sài Gòn, người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã rời Tổ quốc trên con tàu Đô đốc Latouche-Tréville, bắt đầu hành trình tìm đường cứu nước. Sự kiện này có ý nghĩa lịch sử thế nào đối với con đường giành độc lập của dân tộc Việt Nam sau này, thưa GS.TS? GS.TS Mạch Quang Thắng: Sự kiện này là kết quả của tư duy và hành động rất đúng đắn của người thanh niên Nguyễn Tất Thành (một tên gọi lúc thanh niên, sau này tên gọi là Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh) sau khi cảm nhận được sự thất bại của các con đường cứu nước của các thế hệ trước. Đó là thất bại của đường lối cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến mà tiêu biểu là phong trào Cần Vương (phò vua, nghĩa là vẫn duy trì chế độ phong kiến đã khủng hoảng, lỗi thời). Đó là thất bại của đường lối cứu nước theo hệ tư tưởng dân chủ tư sản, mà tiêu biểu nhất là 3 phong trào: Phong trào bạo động vũ trang do cụ Phan Bội Châu lãnh đạo; phong trào cải cách do cụ Phan Châu Trinh lãnh đạo; phong trào giành độc lập dân tộc của Việt Nam Quốc dân đảng do ông Nguyễn Thái Học đứng đầu. Anh thanh niên Nguyễn Tất Thành giàu lòng yêu nước rất khâm phục các phong trào đó nhưng không đi theo mà lựa chọn đi sang Pháp và các nước khác để tìm mục tiêu và con đường cứu nước khác, đánh dấu bằng sự kiện Đại hội 18 Đảng Xã hội Pháp tại TP Tours cuối tháng 12/1920, từ đó anh trở thành người Cộng sản Việt Nam đầu tiên, trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp năm 1920. Đó là mốc đánh dấu anh tìm thấy mục tiêu và con đường mới, rất đúng đắn, phù hợp với sự phát triển của dân tộc Việt Nam: Mục tiêu Chủ nghĩa Cộng sản, con đường độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội. Tôi muốn nhấn mạnh rằng, đây không chỉ là sự kiện mang dấu ấn cá nhân Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc, mà còn có ý nghĩa rất to lớn đối với cách mạng Việt Nam. Bởi vì, sau sự kiện này, Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc truyền bá Chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam, chuẩn bị về mọi mặt cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3/2/1930, khẳng định lại mục tiêu và con đường phát triển của dân tộc Việt Nam. Mục tiêu và con đường này đã được trải nghiệm hơn 95 năm nay và chứng minh hoàn toàn đúng đắn. Từ đó về sau, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đều kiên trì đi theo mục tiêu và con đường đó, bất chấp những khó khăn trở ngại, đạt được những kết quả xuất sắc như hiện nay. GS.TS có thể cho biết ý nghĩa lịch sử của Bản Tuyên ngôn Độc lập được Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại Quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945. Tuyên ngôn Độc lập đã mở ra thời kỳ mới của dân tộc ta ra sao? GS. TS Mạch Quang Thắng: Ý nghĩa của bản Tuyên ngôn Độc lập có nhiều, tôi thấy nổi rõ hơn hết là ở bốn điểm, cụ thể: Một là, khai sinh một chế độ chính trị hoàn toàn mới trong lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam với Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam châu Á. Hai là, với chế độ chính trị này, người dân Việt Nam từ thân phận nô lệ được “đổi đời” trở thành người làm chủ, làm chủ đất nước và làm chủ vận mệnh của bản thân mình. Ba là, với Bản Tuyên ngôn Độc lập, dân tộc Việt bước vào hàng ngũ các dân tộc tiên phong trên thế giới đấu tranh vì sự tiến bộ xã hội. TỪ BẾN NHÀ RỒNG ĐẾN “LỜI THỀ ĐỘC LẬP VANG LÊN TỪ CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH TẠI VƯỜN HOA BA ĐÌNH (HÀ NỘI) BUỔI CHIỀU NẮNG VÀNG MẬT ONG NGÀY 2/9/1945 ĐÃ ĐƯỢC TOÀN ĐẢNG, TOÀN DÂN, TOÀN QUÂN TA THỰC HIỆN MỘT CÁCH XUẤT SẮC”, GS.TS MẠCH QUANG THẮNG, ỦY VIÊN HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CỦA HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH, CHIA SẺ VỚI PV TIỀN PHONG, NHÂN KỶ NIỆM 80 NĂM CÁCH MẠNG THÁNG TÁM THÀNH CÔNG (19/8/1945 - 19/8/2025) VÀ QUỐC KHÁNH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM (2/9/1945 - 2/9/2025). VĂN KIÊN – LUÂN DŨNG (thực hiện) GS. TS Mạch Quang Thắng MỘT DẢI NON SÔNG Bốn là, từ đây, Đảng ta trở thành một Đảng cầm quyền, cầm quyền là do uy tín của Đảng qua bao hy sinh, kể cả hy sinh tính mệnh của những người cộng sản, rồi được Nhân dân tín nhiệm trao quyền lãnh đạo xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đưa dân tộc phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. VỮNG TIN, ĐẦY SINH KHÍ TIẾN VÀO KỶ NGUYÊN MỚI Trong Bản Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Câu nói này có ý nghĩa như thế nào trong thời điểm đó? Và trải qua 80 năm, dân tộc Việt Nam đã đoàn kết, giữ trọn lời thề vang lên ở Quảng trường Ba Đình ấy ra sao, nhất là qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ? GS. TS Mạch Quang Thắng: Sự khẳng định như thế trong Bản Tuyên ngôn Độc lập cũng là biểu thị quyết Quảng trường Ba Đình lịch sử ngày 2/9/1945 ẢNH: TTXVN RẠNG RỠ VIỆT NAM 6 www.tienphong.vn
Thiếu tướng Hoàng Kiền từng gắn bó với Trường Sa từ năm 1989, khi ông mới là Trung đoàn trưởng trung đoàn công binh Hải quân 83, được phân công ra xây dựng những công trình quân sự ở Trường Sa. Nhớ đến những ngày tháng thiếu thốn trăm bề ấy, ông bảo thương nhất là bữa cơm trên đảo của bộ đội: “Quanh năm ăn đồ hộp, khi tàu ra tiếp tế mới được mấy bữa rau, mắc bệnh đường ruột rất nhiều. Thời điểm các đơn vị công binh ra xây dựng, tàu chở vật liệu cấp hàng liên tục anh em mới có rau xanh ăn thường xuyên. Nhưng đấy không phải là kế lâu dài. Phải biết rằng, các đảo ở Trường Sa đều rất khô cằn, toàn là cát đá san hô, không có nước ngọt nên hầu như không có cây xanh. Thứ cây có thể sống được chỉ có phong ba, bàng vuông và muống biển”. Về sau, Thiếu tướng Hoàng Kiền chính là một trong những người đầu tiên đề xuất và thực hiện công trình mang đất ra Trường Sa để các chiến sĩ trồng rau xanh, cải thiện cuộc sống. Tôi cũng đã gặp những người thợ của “làng xây đảo” Bỉnh Di, Giao Thủy, Nam Định và nghe họ kể về những ngày đầu tiên xây dựng Trường Sa. Ông Nguyễn Văn Hoàn, một thợ nề giỏi của làng Bỉnh Di được chiêu mộ ra xây dựng Trường Sa kể lại: “Năm 1991, chúng tôi lần đầu đặt chân lên đảo Nam Yết, lúc bấy giờ chỉ có nắng, cát và san hô thôi, cây cối không có gì. Đến năm 2011 tôi ra Đảo Trường Sa lớn xây cái nhà truyền thống thì cây cối phủ xanh mát rượi rồi”. Một người khác tôi gặp, cũng rất gắn bó với Trường Sa là Thiếu tướng Nguyễn Hồng Sơn, nguyên Giám đốc Bệnh viện Quân y 175, người có dấu ấn đặc biệt trong việc biến một tổ quân y 3 người ở Trường Sa thành một trung tâm y tế hiện đại như hiện nay. Còn nhà thơ Trần Đăng Khoa, tác giả của tiểu thuyết “Đảo chìm” được nhà văn Lê Lựu đánh giá là “thần bút” thì rất thường kể cho đám hậu sinh nghe những câu chuyện của “Trường Sa ngày ấy”, khi mà ở những đảo chìm như Len Đao, Cô Lin... mới chỉ có những chiếc lều bạt dựng tạm để giữ đảo. Cho đến khi tôi được tham gia chuyến tàu số 9 ra Trường Sa. Trường Sa thực sự sinh động hơn, dữ dội hơn và kiên cường hơn tất cả những gì tôi có thể hình dung. Gió muối và khí hậu đặc thù khiến không khí ở các đảo quanh năm giống “trời nồm” ở miền Bắc. Vào giữa trưa, khi cái nóng 40 độ hắt xuống, trời không một gợn gió, ngay cả một hơi thở nhẹ cũng có thể cảm giác được vị mặn của muối lan dần vào khoang mũi. Để một cái cây bén rễ, dù là cây phong ba dễ sống nhất, các chiến sĩ đều phải bắt đầu che chở cho nó bằng lưới bọc sắt và sẻ chia nguồn nước ngọt quý giá trong suốt quá trình cây trưởng thành. Nói không quá thì mỗi mầm xanh ở đảo đều được lớn lên trong nâng niu. Ở những đảo chìm như Đá Thị, mỗi năm người lính phải chuyển những chậu hoa giấy của mình hai lần. Nửa năm ở phía Bắc, nửa năm ở phía Nam, để tránh gió trực tiếp từ biển quất vào. Để trả nghĩa, cái đám hoa lá ấy cũng tận sức mà bung nở. Tôi lần đầu tiên có cảm giác tha hương gặp cố nhân khi nhìn thấy giữa mênh mông biển nước và đá san hô một gốc hoa của đất liền. Cái sự sống bé nhỏ mà kiên cường ấy không biết đã gánh vác bao nhiêu là ký thác, của những người lính một năm ba trăm sáu mươi lăm ngày chỉ nhìn thấy màu xanh của trời, của nước biển và màu nắng cũng xanh đến cay mắt. Khó khăn như thế, khắc nghiệt như thế, nhưng Trường Sa bây giờ vẫn khiến tôi không thể kết nối với hình ảnh “bề mặt quần đảo cằn cỗi không khác gì Mặt trăng” như lời kể của Thiếu tướng Hoàng Kiền. Công cuộc “xanh hóa Trường Sa” đã khiến những đảo như Song Tử Tây, Sinh Tồn... được phủ xanh bằng đu đủ, hồng xiêm, rau ngót, rau đay, rau dền, rau muống, bằng những giàn bầu, giàn mướp trĩu quá. Những đứa trẻ con trên đảo có một vẻ khoẻ mạnh và dạn người đặc biệt. Khi chúng tôi ngồi nói chuyện với thầy giáo Hồng Lĩnh trên đảo Sinh Tồn, học sinh từ lớp mẫu giáo lớn đến lớp 5 vui vẻ xoay quanh thầy với đủ thứ vấn đề của những đứa nhỏ đang ở tuổi vô ưu vô lo. Trẻ con luôn có một giác quan đặc biệt đối với những người thực sự quan tâm và yêu thương nó. May mắn, những đứa trẻ ở đảo đã có một thầy giáo tốt. Điện mặt trời, nước ngọt, đường giao thông, trường học, chùa, nhà văn hoá... đang dần dần biến những đảo hoang ở rải rác giữa biển trở thành làng, thành nơi chôn nhau cắt rốn của những thế hệ sau thời kỳ mở đường giữ đảo. Việc em bé Nguyễn Ngọc Trường Xuân được sinh ra ngay trên đảo lớn Trường Sa giống như một thông điệp về sự sống tiếp diễn và đầy sinh cơ của quần đảo này. Mà để đổi lấy tất cả những lấp lánh ấy, là một cái giá không thể nào đo đếm. Trong bài thơ “Thêm một lần Tổ quốc được sinh ra”, tôi cho là hay nhất của Nguyễn Việt Chiến, ông viết: “Có nơi nào như đất nước chúng ta/ Viết bằng máu cả ngàn chương sử đỏ/ Khi giặc đến vạn người con quyết tử/ Cho một lần Tổ quốc được sinh ra”. Rất nhiều người trong chúng tôi đã rơi nước mắt khi tham dự lễ tưởng niệm 64 cán bộ, chiến sĩ đã ngã xuống trong cuộc chiến ở đảo Gạc Ma, một nửa trong số họ đều mới chỉ mười tám hai mươi tuổi “chưa một lần biết hôn”. Và tấm bia dính máu trên đảo Sinh Tồn sừng sững nhắc nhở về một quá khứ bi tráng gắn liền với hy sinh xương máu của bao người, bao thế hệ... n Đến mới hiểu TRƯỚC KHI ĐẾN TRƯỜNG SA, TÔI CHO RẰNG MÌNH ĐÃ HIỂU TRƯỜNG SA ĐỦ NHIỀU! KHI VIẾT BÀI CHÂN DUNG VỀ THIẾU TƯỚNG HOÀNG KIỀN, TÔI ĐÃ DÀNH RẤT NHIỀU THỜI GIAN PHỎNG VẤN NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG ĐÃ QUA CỦA ÔNG. HAI PHẦN BA THÔNG TIN TRONG NHỮNG CÂU CHUYỆN ẤY LÀ VỀ TRƯỜNG SA. HẠNH ĐỖ Những cái vẫy tay lưu luyến với đất liền TRƯỜNG SA Ngoài 9 con chó thì đám hoa giấy trên đảo Đá Thị được đưa vào danh sách ưu tiên chăm sóc mỗi ngày của toàn bộ chiến sĩ tâm không gì lay chuyển được của toàn dân tộc Việt Nam trong việc bảo vệ và phát huy thành quả cách mạng đã giành được trong suốt 15 năm đấu tranh giành chính quyền do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo (1930 - 1945) mà trực tiếp là cao trào cách mạng dẫn đến thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 (1939 - 1945). Thời điểm này, sự khẳng định đó có ý nghĩa rất lớn khi cách mạng Việt Nam đang chuẩn bị bước vào những thách thức cực kỳ gay go, như ngay sau đó diễn ra với tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”: Giặc ngoài thù trong nổi lên, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chưa được nước nào công nhận, kể cả Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác; các thế lực phản động trong nước ngóc đầu dậy phá hoại cách mạng; kinh tế tiêu điều do hậu quả cai trị của chế độ đế quốc và phong kiến tay sai. Trong 80 năm qua (1945 - 2025), đất nước Việt Nam với chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, đã vượt qua rất nhiều khó khăn, thử thách xây dựng, củng cố, phát huy sức mạnh tổng hợp từ khối đại đoàn kết toàn dân tộc để phát triển, trong đó có việc giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp tái chiếm (1945 - 1954), trong cuộc kháng chiến 21 năm chống Mỹ, cứu nước (1954-1975); đánh thắng cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Tây Nam do sự xâm lược của Pol Pot và sự xâm lược ở biên giới phía Bắc do bọn bành trướng Trung Quốc gây ra. Lời thề độc lập vang lên từ Chủ tịch Hồ Chí Minh tại vườn hoa Ba Đình (Hà Nội) trong buổi chiều nắng vàng mật ong ngày 2/9/1945 đã được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta thực hiện một cách xuất sắc. Giữ nước đi đôi với dựng nước. Với mục tiêu và con đường đã được xác định từ Đại hội Tours, được khẳng định lại trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ngày 3/2/1930, Nhân dân Việt Nam đã xây dựng đất nước Việt Nam ngày càng “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”, tiến hành công cuộc đổi mới. Trong gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới từ cuối năm 1986 trở đi, Việt Nam đã tiến những bước dài trên con đường phát triển và đang vững tin, tự hào, đầy sinh khí tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình tới hạnh phúc, hùng cường, thỏa lòng mong mỏi của Bác Hồ kính yêu và đáp ứng khát vọng của dân tộc Việt Nam sánh vai với các cường quốc năm châu. Tất cả những thành tựu vĩ đại trên đây, có thể nói, đều bắt nguồn từ thắng lợi của cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho đồng bào, biểu đạt rõ ràng nhất trong bản hùng ca Tuyên ngôn Độc lập. Nay, vào thời điểm kỷ niệm 80 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Bản Tuyên ngôn Độc lập - sự tiếp nối của Nam quốc sơn hà thế kỷ XI, của bản Bình Ngô đại cáo thế kỷ XV của nước Đại Việt – vẫn là niềm cảm hứng lớn lao bất diệt cổ vũ cho cả dân tộc Việt Nam đi tới theo mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trân trọng cảm ơn GS.TS! RẠNG RỠ VIỆT NAM 7 www.tienphong.vn
HÒA ÂM, PHỐI KHÍ CÁC BÀI HÁT CÁCH MẠNG Tiếp tôi tại Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam, thượng tá Phạm Vũ Sơn, Trưởng phòng Sưu tầm của Bảo tàng cho biết, bộ kèn đồng này gồm 20 chiếc với các loại kèn Xắcxô, Tennô, Coz, Trompét, Connette. Cách đây đúng 80 năm, bộ kèn này được Ban Âm nhạc Giải phóng quân sử dụng để hòa tấu bài Quốc ca trong lễ Tuyên ngôn độc lập tại Quảng trường Ba Đình lịch sử. Tại nơi trưng bày của Bảo tàng, bài “Tiến Quân ca” do cố nhạc sĩ Văn Cao trước đây đã chép tặng Bảo tàng được bố trí trưng bày cùng bộ kèn đồng để du khách đến tham quan dễ hình dung hơn về không khí hào hùng trong lễ Quốc khánh đặc biệt của đất nước. Để tôi hiểu rõ hơn về việc Ban Âm nhạc Giải phóng quân đã hòa tấu bài Quốc ca năm xưa, Thượng tá Sơn cho tôi tham khảo cuốn “Lịch sử Đoàn Nghi lễ Quân đội 1945-2015” do Nhà Xuất bản Quân đội Nhân dân xuất bản. Cuốn sách cho biết, sau khi Tổng khởi nghĩa Tháng Tám ở Hà Nội giành thắng lợi, một ngày sau, ngày 20/8/1945, 70 đội viên đội kèn Bảo an binh của chế độ Thực dân đã đồng lòng đi theo Cách mạng, đánh dấu sự ra đời của Ban Âm nhạc Giải phóng quân. Khi đó, ông Đinh Ngọc Liên được giao nhiệm vụ làm nhạc trưởng, chỉ huy Ban Âm nhạc Giải phóng quân. Sau khi được thành lập, Ban Âm nhạc Giải phóng quân trực thuộc Bộ Chỉ huy Quân sự Hà Nội, trang phục thống nhất theo Giải phóng quân gồm quần áo ka ki, đi giày, đội mũ ca lô có đính quân hiệu tròn, sao vàng trên nền đỏ. Thời gian này, những bài hát cách mạng của các nhạc sĩ sáng tác thời kỳ tiền khởi nghĩa có tác động quan trọng trong đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân và bộ đội Thủ đô. Tiếng hát hùng tráng của các bài hát như “Tiến Quân ca”, “Diệt Phát xít”, “Du kích ca”… vang lên suốt ngày đêm trên nhiều đường phố và trong doanh trại quân đội. Tuy nhiên, để đưa những bài hát đó vào biểu diễn ở những dàn nhạc phải qua bước quan trọng là hòa âm và phối khí. Đó là những thử thách không nhỏ, bởi ở Việt Nam khi ấy chưa có một cuốn sách hay một người nào giảng dạy chuyên môn về hòa âm và phối khí. Tất cả các dàn nhạc nhỏ thường đánh “vo” hoặc diễn tấu theo bản tổng phổ in sẵn của châu Âu. Do vậy, ở thời kỳ đó, để có thể hòa âm và phối khí các bài hát cách mạng kể trên, vai trò của nhạc trưởng Đinh Ngọc Liên rất quan trọng. Dựa vào những kiến thức về âm nhạc tích lũy nhiều năm dưới thời Pháp thuộc, rồi tự mình học cách hòa âm, phối khí qua các bản tổng phổ của các đại danh nhạc cổ điển phương Tây, nhạc trưởng Đinh Ngọc Liên đã viết hòa âm, phối khí cho các ca khúc cách mạng tiêu biểu như “Tiến Quân ca”, “Chiến sĩ ca”, “Diệt Phát xít”, “Du kích ca”, “Cùng nhau đi hồng binh”… Khi đã có các bản hòa âm, phối khí, các thành viên của Ban Âm nhạc Giải phóng quân đã không quản thời gian, tích cực tập luyện để chuẩn bị cho những dịp lễ lớn của dân tộc sẽ diễn ra trong thời gian tới. ÂM HƯỞNG QUỐC CA TẠI LỄ TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP Trong quá trình Ban Âm nhạc Giải phóng tập luyện, nhạc trưởng Đinh Ngọc Liên được giao nhiệm vụ chuẩn bị thật kỹ bài hát“Tiến Quân ca”để hòa tấu trong lễ Tuyên ngôn Độc lập của nước nhà. “Tiến Quân ca” của nhạc sĩ Văn Cao là ca khúc hay, trước đó đã được Quốc dân Đại hội họp ở Tân Trào chọn làm Quốc ca. Sau khi nhận được chỉ thị, nhạc trưởng Đinh Ngọc Liên bàn với nhạc sĩ Nguyễn Hữu Tiến để hòa âm, phối khí thật chuẩn cho bài “Tiến Quân ca”. Đây là lần đầu tiên nước ta công bố Quốc ca, do đó phải làm cho bài “Tiến Quân ca”khi hòa tấu phải tạo được âm hưởng đặc trưng, tiêu biểu cho khí phách và tầm vóc của một quốc gia độc lập. Từ ý nghĩa trên, nhạc trưởng Đinh Ngọc Liên và nhạc sĩ Nguyễn Hữu Tiến đã gặp nhạc sĩ Văn Cao để trao đổi thật kỹ về phần nhạc của bài “Tiến Quân ca”. Sau khi cân nhắc kỹ càng, nhạc sĩ Văn Cao đã thống nhất với nhạc sĩ Đinh Ngọc Liên và Nguyễn Hữu Tiến cần sửa hai chỗ, đó là rút ngắn trường độ nốt“rê” của chữ “đoàn” và nốt “mi” ở chữ “xác” trong bản nhạc để bài “Tiến Quân ca” thêm khỏe khoắn, hùng tráng hơn. Khi tổng phổ của bài hát được hoàn thành, các thành viên trong Ban Âm nhạc Giải phóng quân tập đi tập lại bài Quốc ca và một số hành khúc khác để phục vụ lễ Tuyên ngôn Độc lập. Đêm 1/9/1945, toàn đội thao thức, không ai ngủ được. Sáng 2/9/1945, các thành viên của Ban Âm nhạc Giải phóng quân tề chỉnh trong trang phục quần áo ka ki vàng, đi giày da, đội mũ ca lô có đính quân hiệu, hành quân lên Quảng trường Ba Đình theo đội hình 75 người, được phân làm ba đội gồm: đội thông hiệu, đội trống và đội nhạc hơi. Nhận vị trí trước lễ đài, các thành viên của Ban Âm nhạc Giải phóng quân dàn thành năm hàng ngang, mặt hướng về lễ đài. Nhạc trưởng Đinh Ngọc Liên phụ trách chỉ huy dàn nhạc. Tại lễ Tuyên ngôn Độc lập, các thành viên Ban Âm nhạc Giải phóng quân vinh dự được đứng cạnh lễ đài. Cũng như tất cả người dân tham dự lễ Tuyên ngôn Độc lập, các thành viên Ban Âm nhạc Giải phóng quân không ai nén được xúc động. Buổi lễ bắt đầu, khi lá cờ Tổ quốc từ từ được kéo lên đỉnh cột cờ thì cũng là lúc âm thanh hùng tráng của Quốc ca được vang lên. Để diễn đạt được tổng thể của Quốc ca, các nhạc công đã tập trung tâm trí, sử dụng chuẩn xác từng chiếc kèn dưới sự chỉ huy chặt chẽ, chính xác của nhạc trưởng Đinh Ngọc Liên. Trong tiếng kèn vang vọng, tất cả những người có mặt tại lễ Tuyên ngôn Độc lập như ngưng đọng trong giờ phút thiêng liêng ấy. Nhạc điệu của Quốc ca mỗi lúc thêm dồn dập, giống như nhịp đập của trái tim Tổ quốc đang hòa nhịp với trái tim của mỗi người dân. Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, Quốc ca nước Việt Nam được lan tỏa, báo hiệu một nhà nước độc lập ra đời. n Bộ kèn đồng hòa tấu bài Quốc ca TRONG LỄ TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP TẠI BẢO TÀNG LỊCH SỬ QUÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN TRƯNG BÀY MỘT BỘ KÈN ĐỒNG TỪNG ĐƯỢC BAN ÂM NHẠC GIẢI PHÓNG QUÂN SỬ DỤNG ĐỂ HÒA TẤU BÀI QUỐC CA TRONG LỄ TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP. ĐẾN NAY, BỘ KÈN ĐỒNG NÀY LÀ MỘT SƯU TẬP HIỆN VẬT ĐẶC BIỆT TRONG LỊCH SỬ HÀO HÙNG CỦA DÂN TỘC TA. KIẾN NGHĨA Nhạc sĩ Đinh Ngọc Liên (1912-1991) là một trong những người có công xây dựng Đoàn Quân nhạc Việt Nam trở thành chính quy. Sau này, ông giữ chức Đoàn trưởng Đoàn Quân nhạc Việt Nam và được phong quân hàm Đại tá. Ngoài công việc chỉ huy dàn dựng, nhạc sĩ Đinh Ngọc Liên còn tham gia đào tạo, và nhiều học trò của ông đã trở thành những nghệ sĩ uy tín trong và ngoài quân đội. Với những đóng góp của mình, năm 1988, nhạc sĩ Đinh Ngọc Liên được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân. Bộ kèn đồng quý giá được trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam Ban Âm nhạc Giải phóng quân tham gia lễ Tuyên ngôn Độc lập 2/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình ẢNH: T.L Sau lễ chào cờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tất cả mọi người tại quảng trường lặng im lắng nghe, rồi cùng vỡ òa trong niềm vui khôn tả khi đất nước ta bước vào một trang sử mới. Bài hát “Tiến Quân ca” do nhạc sĩ Văn Cao chép tặng Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam Nhạc sĩ Đinh Ngọc Liên (phải) và nhạc sĩ Văn Cao RẠNG RỠ VIỆT NAM 8 www.tienphong.vn
RkJQdWJsaXNoZXIy MjM5MTU3OQ==