bán qua gallery, môi giới độc lập hoặc trực tiếp từ studio của họa sĩ. Sự gia tăng về giá trị này cho thấy, không chỉ các nhà sưu tầm mà cả những người mới gia nhập thị trường cũng dần nhận ra tiềm năng đầu tư vào nghệ thuật đương đại. Bà Dương Thu Hằng, Giám đốc Hanoi Studio Gallery xác định, việc tập trung đầu tư cho các họa sĩ mới rất vất vả, đặc biệt khi phòng tranh này chọn đi theo hướng quảng bá cho các tác giả, tác phẩm đương đại tiềm năng. “Tôi tin chúng ta đã bắt đầu có một thị trường, nhưng các tác giả trẻ không thể mong sinh lời ngay trong 5-7 năm đầu, mà luôn phải tính bằng nhiều thập kỷ. Hãy cứ là người mua và sưu tầm, tận hưởng năng lượng của sự sáng tạo trước khi coi nó là một món đầu tư”. THỊ TRƯỜNG CÒN SƠ CẤP Mặc dù thị trường mỹ thuật Việt Nam đã có những bước phát triển tích cực, nhiều chuyên gia vẫn nhận định rằng, thị trường này còn ở giai đoạn sơ cấp và thiếu tính chuyên nghiệp. Một trong những nguyên nhân chính là sự thiếu vắng của một hệ thống thị trường mỹ thuật thực sự. Tiến sĩ Mã Thanh Cao, nguyên Giám đốc Bảo tàng Mỹ thuật TPHCM cho rằng: “Việt Nam chỉ mới có dấu hiệu mà chưa có thị trường mỹ thuật thật sự. Người chơi tranh không nhiều mà người chơi có tầm lại ít, dẫn đến giá tranh giao dịch trên thị trường trong nước chưa tương xứng với giá trị thật của tác phẩm”. Thêm vào đó, tình trạng tranh giả tràn lan cũng làm giảm uy tín của thị trường. Tờ New York Times từng nhận định, thị trường tranh Việt Nam đầy rẫy sự gian lận, với nhiều tác phẩm giả mạo được bán ra, làm giảm niềm tin của người mua và ảnh hưởng tiêu cực đến giá trị của tranh Việt Nam trên thị trường quốc tế. Những tác phẩm giả mạo không chỉ nhắm đến tranh của các danh họa nổi tiếng thời Đông Dương như Lê Phổ, Mai Trung Thứ hay Vũ Cao Đàm, mà còn lan sang cả các họa sĩ đương đại. Ngoài ra, việc thiếu các cơ sở hạ tầng hỗ trợ, như các sàn đấu giá chuyên nghiệp, các nhà môi giới và giám tuyển có kinh nghiệm, cũng là rào cản lớn. Nghệ thuật đương đại Việt Nam đang đứng ở vị trí nhìn đâu cũng thấy bứt rứt: thiếu nhà môi giới, thiếu giám tuyển, chỉ tồn tại một vài sàn đấu giá cái này nổi lên cái kia lại dỡ xuống và thị trường còn mang tính nhỏ lẻ, chưa tạo được dòng chảy. Tình trạng này dẫn đến việc các họa sĩ phải tự mình bán tranh thông qua các mối quan hệ cá nhân hoặc các kênh trực tuyến, thay vì thông qua các gallery hoặc sàn đấu giá chuyên nghiệp. Một nhà sưu tập ở TPHCM cho rằng, phổ giá tranh đương đại hiện không quá 10.000 USD/bức nếu họa sĩ đã thành danh, còn bình quân chỉ khoảng 1.000-3.000 USD/bức. Nhà sưu tầm Hoàng Anh Tuấn nhận định về bản chất, thị trường nghệ thuật không bao giờ có được tính minh bạch cũng như tính thanh khoản cao như thị trường hàng hóa tiêu dùng thông thường. Ông nhận định, phí gia nhập của những mặt hàng tiêu dùng thông thường rất rõ ràng, nhưng phí gia nhập của nghệ thuật thì lớn, trở thành một rào cản. Thêm vào đó, tranh lại là mặt hàng mang tính độc bản chứ không thể sản xuất hàng loạt, định giá của tác giả về tác phẩm của mình có thể rất chủ quan. Giám tuyển Ace Lê cho rằng, để tạo dựng một thị trường tranh khỏe mạnh, mục tiêu tăng cường tiếp cận của công chúng Việt với nghệ thuật là quan trọng nhất. Ngoài ra, các hạ tầng cơ sở như khung chính sách, luật pháp để bảo vệ quyền lợi cho các bên tham gia cũng rất cần thiết để làm nền tảng vững chắc cho một thị trường tranh lành mạnh, sôi động. Thứ đến là hệ thống giáo dục, cần có bộ môn tiếp cận tới mỹ thuật và lịch sử mỹ thuật cho trẻ em; đi kèm với hệ thống bảo tàng, gallery rộng khắp để đưa nghệ thuật đến gần với công chúng hơn. HẠNH ĐỖ 9 n Thứ Tư n Ngày 8/1/2025 VĂN HÓA - GIẢI TRÍ nhưng những tán rừng nguyên sinh nơi đây được bảo tồn rất tốt, bà con lập ra hương ước, quy ước trong việc bảo vệ, cũng như thưởng phạt rõ ràng đối với ai vi phạm. Hàng năm, bà con nơi đây đều tổ chức Lễ cúng rừng (hay còn gọi Lễ Tết rừng) để báo cáo và cảm ơn thần rừng đã chở che. Ngồi bên bếp lửa trong ngôi nhà được làm những cây thông, thưởng thức chén trà từ cây chè cổ trong khu bảo tồn, ông Sùng Nhà Páo (SN 1954, thôn Bản Tát, xã Nà Hẩu) tâm sự, năm 1986, khi gia đình đến vùng đất này vẫn còn rất hoang sơ, muông thú rất nhiều, bốn xung quanh đều là rừng già với những gốc cây cổ thụ hàng trăm năm tuổi. Khi đó cả chòm, bản chỉ lưa thưa vài nóc nhà. Dần dần, mọi người thấy nơi đây đất đai phì nhiêu đã di dân đến. Thời gian đầu, nhiều người cũng vào rừng chặt cây, làm nhà, làm nương rẫy, săn bắt thú để làm thức ăn… Theo ông Páo, đối với người Mông Nà Hẩu rừng như nguồn sống, là mái nhà che chở, là chỗ dựa tinh thần của cả cộng đồng, đồng bào nơi đây đã trải qua hàng trăm năm chung sống hoà thuận với rừng, hiểu được luật rừng, đặt ra những quy định, hương ước được cộng đồng tôn trọng như luật tục, Nghị quyết, và được truyền từ đời này sang đời khác trong việc giữ rừng, bảo vệ rừng. TỪ LUẬT TỤC THÀNH DI SẢN Rời nhà ông Páo, đoàn chúng tôi di chuyển đến khu vực rừng thiêng của thôn Bản Tát. Vừa chỉ vào khu rừng với bạt ngàn những gốc cây to, cổ thụ xanh mướt, thầy cúng Giàng A Sềnh, ở xã Nà Hẩu giảng giải, ở mỗi thôn, bản của xã Nà Hẩu đều có một khu rừng cấm - rừng thiêng, đây là nơi hội tụ đầy đủ linh khí của trời đất để thờ cúng Thần Rừng với những quy định “bất khả xâm phạm”. Theo quan niệm của người Mông, đó là nơi chở che dân bản tránh cái gió, tránh lũ ống, lũ quét, cho dân bản sản vật để ăn, nguồn nước để uống và tưới tiêu cho đồng ruộng. Vừa di chuyển đến địa điểm hàng năm tổ chức lễ cúng rừng, thầy cúng Sềnh vừa giảng giải, Lễ cúng được mở đầu bằng phần rước lễ vật từ trung tâm xã lên khu cửa rừng. Nghi thức diễn ra dưới gốc cây Táu Mật cổ thụ. Lễ vật để dâng cúng rừng gồm một cặp gà trống mái, một con lợn được 2 nam, 2 nữ khiêng. Đến giờ lành, thầy cúng kính cẩn dâng hương, lần lượt quay về 4 phía gõ mõ và khấn mời thần linh về chứng giám, hưởng lễ vật, phù hộ, ban lộc rừng cho người dân, cầu cho mưa thuận gió hòa, cây cối tốt tươi, mùa màng bội thu… Sau đó, thầy cúng cùng một số thanh niên trong xã thực hiện việc cắt tiết gà, tiết lợn, lông của gà được phết máu và dán lên gốc cây cổ thụ. Khi kết thúc phần nghi lễ cúng chính, thầy cúng và người dân trải lá ngồi xuống cùng nhau họp, đánh giá tình hình bảo vệ rừng năm qua và cùng thề giữ rừng. Trưởng thôn sẽ là người đánh giá kết quả công tác bảo vệ rừng, tuyên dương các hộ làm tốt. Đồng thời, nêu tên và phê bình các hộ làm chưa tốt để nhân dân trong thôn được biết. Sau khi thực hiện nghi thức thề giữ rừng, trưởng thôn và nhân dân bầu ra tổ tự quản bảo vệ rừng năm mới (trước đây người Mông gọi là chủ rừng). Tổ tự quản rừng sẽ có người đàn ông là những người mạnh mẽ, am hiểu về cây rừng và hiểu tập quán của bà con trong thôn. Sau cùng, bà con tổ chức ăn Tết trên rừng. Mỗi người tham gia lễ cúng sẽ mang theo một cái bát, một đôi đũa, đàn ông mang theo chai rượu, phụ nữ mang theo hộp cơm, muối ớt. Cùng với thực phẩm mang theo, lợn, gà cúng xong sẽ được chia thành các phần để người dân cùng nhau trải lá dong, lá cọ để ăn bữa cơm đoàn kết. Trao đổi với Tiền Phong, ông Lê Thành Hùng - Phó Chủ tịch UBND huyện Văn Yên cho biết: Lễ Tết rừng của đồng bào Mông Nà Hẩu không chỉ là nghi lễ độc đáo có ý nghĩa tâm linh cầu phúc, góp phần bảo tồn các giá trị vật chất, tinh thần trong cộng đồng các dân tộc mà còn thiết thực góp phần vào công tác quản lý, bảo vệ tài nguyên rừng cũng như bảo vệ môi trường sinh thái, bảo tồn sự đa dạng sinh học Khu bảo tồn thiên nhiên Nà Hẩu nói riêng và trên địa bàn huyện Văn Yên nói chung. V.Đ Thầy cúng Giàng A Sềnh tiến hành nghi lễ cúng thần rừng Mới đây Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công bố Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia đối với Lễ cúng rừng của người Mông Nà Hẩu ở loại hình tập quán xã hội và tín ngưỡng. Việc được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia sẽ tiếp tục khơi dậy ý thức giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa đồng bào Mông Nà Hẩu. thiếu chuyên nghiệp Bức “Chân dung cô Phương” của Mai Trung Thứ có giá 3,1 triệu USD trong phiên đấu giá tại Hong Kong (Trung Quốc) Tranh “Em bé ôm gà” của Lê Phổ là tác phẩm mỹ thuật Đông Dương được hồi hương từ Mỹ
RkJQdWJsaXNoZXIy MjM5MTU3OQ==