9 n Thứ Bảy n Ngày 15/3/2025 VĂN HÓA - GIẢI TRÍ thẩm thấu. Các nhà chuyên môn gọi đó là hiện tượng “hỏa biến”. Dưới bàn tay tài hoa của các nghệ nhân, các sản phẩm gốm Phước Tích trở thành biểu tượng sáng tạo và tinh hoa văn hóa dân tộc. Lò nung nung gốm Phước Tích được nung bằng phương pháp thủ công truyền thống, chủ yếu dùng củi làm nhiên liệu đốt, nhưng đây lại là một khó khăn của người thợ gốm, vì vùng này hiếm củi. Nhưng do Phước Tích được nhà vua chọn là nơi sản xuất “om ngự”, còn có tên rất mỹ miều “ngọc oa ngự dụng” (om ngọc vua dùng), nồi nấu cơm cho vua, chỉ dùng một lần rồi vứt bỏ. Các già làng kể rằng: một khi vua ban lệnh làm 100 cái om, thì không một ai được phép làm 101 cái, nếu phát hiện ra sẽ bị phạt nặng. Đất sét dùng làm om ngự phải là loại đất sét đặc biệt mầu đen và phải do những nghệ nhân có tay nghề cao. Dân gian có câu: Om Phước Tích ngon cơm Hoàng đế/Sen Hà Trì quý thể Phú Xuân. Sử cũ chép rằng dưới thời nhà Nguyễn, triều đình có một biệt lệ dành riêng cho làng Phước Tích, hàng tháng làng phải nộp cho triều đình Huế 30 chiếc “om ngự”, như vậy mỗi năm cung tiến cho vua khoảng 400 chiếc om ngự. Triều đình còn quy định rằng: dân làng không ai được giữ lại loại om có hình dáng giống như om tiến vua, muốn dùng phải làm loại khác, nếu phát hiện thấy sẽ bị xử phạt rất nặng. Vì thế mỗi năm dân làng Phước Tích hai lần dong thuyền chở om ngự vào cung. Hành trình khởi đầu là bơi thuyền dọc theo sông Ô Lâu ra phá Tam Giang, rồi ngược dòng Hương Giang chở om vào Hoàng thành cung tiến. Om ngự Phước Tích thường có màu nâu sậm, tiếng gõ vào thành nghe đanh, dáng như chiếc bình hồ lô, có nắp đậy. Om ngự dùng nấu cơm, kho thịt đều rất thơm ngon. Nhờ vậy, làng được đặc ân đi các nơi khai thác những gì cần cho nghề gốm, mà không cần xin phép chính quyền địa phương, trong đó có việc vào rừng thuộc xã Mỹ Xuyên, hay sang Cồn Gióng, xã Hải Chánh, hoặc đến Dương Khánh, xã Hải Dương, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị để lấy củi. Gốm Phước Tích được nung rất kỹ, lò đắp kiên cố, bảo đảm nhiệt độ cao, lửa lúc nào cũng đượm hồng, do đó sản phẩm không bị nứt, không giòn, giữ nhiệt, giữ hương vị . Sản phẩm gốm Phước Tích đặc biệt không có cái nào giống cái nào và màu sắc khác nhau. Hoa văn trên sản phẩm gốm Phước Tích được chạm trổ tinh tế, không lẫn với bất kỳ sản phẩm gốm nào. Lò nung gốm Phước Tích là loại “lò cóc”, vì có hình dáng bầu bầu như bụng con cóc. Lò dài chừng 30m, phía trên có mái che lợp bằng cỏ tranh. Gốm Phước Tích làm hoàn toàn theo phương pháp thủ công truyền thống. Các sản phẩm được tạo hình bằng cách đặt đất sét lên bàn xoay, rồi dùng tay để tạo dáng sản phẩm. Sách “Ô châu cận lục” ghi rằng: Tại vùng này có hai làng Phước Tích và Mỹ Xuyên đều làm nghề gốm nổi tiếng nằm cạnh nhau. Nhưng về sau người ta biết chỉ có làng Phước Tích làm nghề gốm. Thậm chí ngay cả người dân Mỹ Xuyên cũng không biết tại làng mình đã từng có lò nung gốm. Nhưng qua trận lũ năm 1990, làm xói mòn khu vực Cầu Máng (gần Cồn Trèng), làm lộ thiên các hiện vật gốm cổ. Một số nhà nghiên cứu cho rằng đây là gốm Chăm. Một số khác lại khẳng định đây là gốm Việt. Thực ra giữa gốm Chăm và gốm Việt khác nhau chủ yếu qua công đoạn chế tác. Người thợ gốm Chăm chế tác không cần bàn xoay, mà dùng đôi bàn tay khéo léo để tạo dựng bất cứ sản phẩm nào. Họ không cần xây lò nung lớn như lò gốm Việt. Sản phẩm gốm Phước Tích đa dạng về kiểu dáng, phong phú về chủng loại như: lu (chum), ghè, thạp, thống, om (niêu), ông Táo (bếp đun)… Các bác cao niên trong làng cho biết không phải đến thời nay mà ngay từ thế kỷ XVII - XVIII, nghề gốm Phước Tích đã phát triển rất mạnh, thương lái các nơi đến mua bán tấp nập, đã mang lại cho dân làng cuộc sống no ấm. Vì thế trong làng có rất nhiều nhà rường quy mô bề thế vẫn còn lại đến hôm nay. T.M.T Om ngự Trải qua một thời dài lịch sử, gốm Phước Tích thịnh suy theo thời gian. Ngày nay có nhiều sản phẩm gốm sứ công nghiệp với độ tinh xảo cao, màu sắc bền, mẫu mã vô cùng phong phú ra đời. Gốm Phước Tích không thể nào cạnh tranh nổi. Làng gốm Phước Tích chính thức tắt lửa vào năm 1980, sau 500 năm hoạt động bền bỉ, đã làm cho bao người nuối tiếc. thi ngày càng mở rộng và lan tỏa tới nhiều vùng miền khác nhau, tạo nên một bức tranh sắc màu đa văn hóa. Bà Trần Thị Thu Hà, Phó Trưởng Ban tổ chức Hoa hậu Việt Nam 2024 chia sẻ: “Số lượng thí sinh quá đông trong một thời gian tuyển sinh quá ngắn, chỉ vỏn vẹn gần 2 tháng. Đặc biệt, phần lớn các thí sinh đều là gương mặt mới, trẻ trung và tràn đầy nhiệt huyết. Tỷ lệ thí sinh từng tham gia mùa trước rất thấp, điều này giúp cuộc thi có thêm nhiều nhân tố mới, tươi trẻ, nhiệt huyết, triển vọng hơn”. Dàn thí sinh năm nay có sự chuẩn bị tốt hơn về hình thể. Theo đánh giá của đội ngũ nhân trắc học, nhiều bạn sở hữu tỷ lệ hình thể cân đối, chiều cao đồng đều hơn so với các mùa trước. Vòng sơ khảo phía Bắc ghi nhận nhiều thí sinh mang đến câu chuyện đặc biệt. Có thí sinh mồ côi từ nhỏ, từng nhận được sự giúp đỡ từ cộng đồng và giờ đây mong muốn dùng danh vị của mình (nếu có) để hỗ trợ những em nhỏ có hoàn cảnh tương tự. Một bạn khác chia sẻ về hành trình vượt qua áp lực kinh tế, tự trang trải học phí để theo đuổi con đường học vấn. Không ít thí sinh từng trải qua thất bại nhưng vẫn mạnh dạn thử sức để chinh phục ước mơ. Một số thí sinh đến từ vùng cao, vượt qua điều kiện sống khó khăn để đặt chân đến cuộc thi. Những câu chuyện này tạo nên một bức tranh đa dạng về nghị lực và khát vọng của thế hệ trẻ. Nhiều thí sinh có kinh nghiệm hoạt động cộng đồng, hỗ trợ trẻ em vùng sâu vùng xa, tổ chức chương trình gây quỹ giúp đỡ bệnh nhân ung thư. Một số thí sinh chủ động xây dựng hình ảnh cá nhân, mong muốn tận dụng cơ hội này để theo đuổi các dự án thiện nguyện. HẠNH ĐỖ Văn hóa Việt Nam từ xa xưa là văn hóa “làng - nước”. Dưới nước là đến làng. Mùa xuân, các lễ hội mang bản sắc vùng miền, đất nước đều xuất phát từ các làng như hội Lim, hội chùa Hương, hội Yên Tử, hội Gióng... Các di sản văn hóa thế giới như ví dặm, hát xoan, đờn ca tài tử… đều được phát triển, bảo tồn tại các làng quê. Ngay cả di sản nhã nhạc cung đình Huế cũng có nhiều bài bản dân gian như Lưu Thủy, Kim Tiền… Hồi còn nhỏ, tôi ở làng, gần đơn vị bộ đội. Các anh chị thường cuối tuần ra nhà tôi ca hát, vì trong nhà tôi có cây đàn ghi ta. Tôi rất thích giai điệu, ca từ: “Vì nhân dân quên mình, vì nhân dân hy sinh” (nhạc sĩ Doãn Quang Khải). Các anh chị giúp chúng tôi trồng khoai, trồng lạc, rồi đến mùa thu hoạch, cùng ăn và sinh hoạt văn nghệ. Bởi vậy, ngày đầu tiên đi học vỡ lòng, tôi được may tặng một bộ quân phục nhí và được đeo hàm binh nhất đến trường làng! Thật đúng với câu “Quân với dân như cá với nước”. Các làng quê chứa đựng trong nó biết bao câu chuyện, các câu ca dao, tục ngữ, những truyền thuyết hào hùng. Sinh thời nhà văn Võ Văn Trực tặng tôi một cuốn sách ông sưu tầm các phong tục, các bài ca dao và nói: “Bác từng ở nhà con, ăn cơm bà nấu để sưu tầm viết cuốn sách này”. Tôi đọc sách của bác mà thấy lại những truyền thuyết vẫn được kể đêm đêm ở làng tôi. Tôi lớn lên, lại được gặp nhà văn Nguyễn Minh Châu về làng đi thực tế sáng tác. Bác nói: “Bác là bạn của ba con (ba tôi là nhà báo) ở Hà Nội về”. Chuyến đi thực tế kéo dài hàng tháng ấy đã giúp bác Nguyễn Minh Châu viết các thiên truyện ngắn nổi tiếng là “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành”, “Khách ở quê ra”, “Phiên chợ Giát”. Tối nào, sau khi ăn cơm, bác Nguyễn Minh Châu đều đọc truyện bác mới viết cho mọi người, trong đó có tôi thưởng thức như một món quà tặng người ở quê. Với những người thích tìm tòi khám phá thì các làng quê chính là một mảnh đất tuyệt vời, nguồn cảm hứng không bao giờ cạn. Chẳng phải thế mà du lịch khám phá, đi “phượt” ngày càng thu hút giới trẻ. Tôi có người bạn trước làm việc ở huyện Đoàn, làm công tác mặt trận huyện, rồi về công tác ở xã vùng sâu. Ai cũng nghĩ đang làm việc ở huyện mà về xã thì “tâm tư” lắm nhưng chị nói: “Về xã bận bịu mà vui, vì gần với người dân, gần với ruộng đồng, rừng núi, nắm bắt được tâm tư nguyện vọng của bà con. Điều quan trọng là suy nghĩ người cán bộ gần với suy nghĩ của nhân dân hơn”. Gần đây có chủ trương bỏ cấp huyện, đưa cán bộ về xã, phường “cùng ăn cùng ở cùng làm” với dân, giúp phát huy tiềm năng của từng phường xã, đồng thời cũng tránh tình trạng cán bộ “quan cách”, “xa dân”. Việc đưa cán bộ về cơ sở cũng hạn chế bớt những cán bộ “chỉ giỏi về lý thuyết mà thiếu thực hành”. Những sáng kiến tâm huyết sẽ có “đất” để cán bộ, nhất là cán bộ trẻ thực thi tại các xã, phường… từ nuôi con gì, trồng cây gì, kinh doanh gì cho đến giáo dục, y tế cơ sở phát triển ra sao… Khi rời quận huyện về làm việc ở cơ sở, về với làng quê, tất nhiên nhiều cán bộ sẽ phải xa gia đình, sống làm việc ở nơi cơ sở vật chất và tiện nghi kém hơn nhưng bù lại, sẽ không còn tình trạng “sáng cắp ô đi, tối cắp về”. Mùa nào, ngày nào cũng có công việc mới mẻ để làm: Tháng Chạp là tháng trồng khoai, tháng Giêng trồng đậu, tháng Hai trồng cà...”. Cán bộ sống trong dân, hòa mình trong dân là bí quyết để đi tới thành công trong một thời kháng chiến hào hùng. Nhà tình báo nổi tiếng Tư Cang nói với tôi: “Vì sao chúng ta hoạt động trong lòng địch, giữa trăm nghìn tai mắt của địch, thiên la địa võng mà chúng ta vẫn thành công? Đó là vì chúng ta hoạt động trong dân, sống trong dân mà không có khoảng cách, càng không có sự quan cách nào cả. Địch không thể phát hiện một cán bộ cách mạng cấp cục, cấp trung ương và một người dân thường khác nhau chỗ nào! Tôi thường nói với anh em chúng ta khác các nước vì chúng ta là tình báo nhân dân”. NGUYÊN ANH Về giữa lòng dân SỔ TAY Nhà báo Phùng Công Sưởng, nhận xét: “Ngoài mục tiêu tìm kiếm những nhan sắc xứng đáng, cuộc thi Hoa hậu Việt Nam còn hướng đến những cô gái có trái tim ấm áp, sống trách nhiệm với xã hội. Những thí sinh năm nay mang theo khát khao cống hiến, tinh thần vượt khó, sự kiên trì… khiến Ban Giám khảo nhiều lần xúc động”. Nhà báo Phùng Công Sưởng, Trưởng Ban tổ chức cuộc thi, đánh giá chất lượng thí sinh năm nay có nhiều điểm nổi bật, không chỉ ở diện mạo mà còn ở nền tảng tri thức và tài năng cá nhân ẢNH: NHƯ Ý
RkJQdWJsaXNoZXIy MjM5MTU3OQ==