5 nThứ Tư n Ngày 12/3/2025 KINH TẾ GIẢM THIỂU RỦI RO Trao đổi với PV Tiền Phong, ông Phan Đức Trung - Chủ tịch Hiệp hội Blockchain Việt Nam - cho biết, tài sản mã hóa và tài sản số là cơ hội đang được nhiều quốc gia đón nhận trên toàn cầu. Theo dự báo của Công ty tư vấn toàn cầu Boston Consulting Group (BCG), đến năm 2030 tài sản mã hóa được đảm bảo bằng tài sản thực sẽ chiếm 10% GDP toàn cầu, tương đương khoảng 16.000 tỷ USD. Trong khi đó, dữ liệu từ Chainalysis - công ty phân tích dữ liệu crypto hàng đầu thế giới - cho thấy dòng chảy tài sản mã hóa vào Việt Nam liên tục duy trì trên 100 tỷ USD mỗi năm, tính từ 2022-2024, cao hơn gấp đôi dòng vốn đầu tư nước ngoài (FDI) chính thống. Nghĩa là đang tồn tại một vùng kinh tế xám chưa được luật hóa và quy định. “Chúng ta đều có thể nhìn nhận ở góc độ quản lý nhà nước, việc ban hành khung pháp lý sẽ cần nhiều góc nhìn từ cơ hội đến giảm thiểu rủi ro và lợi ích quốc gia”, ông Trung nói và cho biết thêm, việc có khuôn khổ pháp lý dưới góc độ đổi mới công nghệ, việc chấp nhận tài sản mã hóa được bảo đảm bằng tài sản thực có thể trở thành một kênh thu hút vốn nước ngoài, đồng thời khuyến khích cả nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia. Ông Trung nhấn mạnh, loại tài sản này không chỉ mở ra cơ hội tiếp cận các tài sản truyền thống như đất đai, vàng, cổ phiếu hay trái phiếu mà còn tạo động lực cho sự đổi mới trong lĩnh vực fintech. Quá trình thu hút vốn này sẽ giúp chúng ta có góc nhìn rõ hơn về đổi mới công nghệ trong công nghệ tài chính (fintech), từ đó xây dựng chiến lược ứng dụng blockchain vào các lĩnh vực khác như logistics, y tế, và dữ liệu phân tán… Đây cũng là vấn đề mà Nghị quyết số 57 ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị nhấn mạnh, khẳng định vai trò quan trọng của công nghệ trong sự phát triển của đất nước những năm tới. Theo ông Trung, báo cáo của tổ chức TripleA tại Singapore cho biết, Việt Nam hiện có khoảng 17 triệu người sở hữu tài sản mã hóa, chiếm 17% dân số, đứng thứ 5 toàn cầu. So với số liệu trung bình dân số toàn cầu ở mức 6,5% thì đây là con số rất lớn. Những con số này phản ánh rõ ràng sự tồn tại của một nền kinh tế hoạt động ở vùng xám đáng kể, đòi hỏi những chính sách phù hợp để hợp thức hóa và thúc đẩy vào nền kinh tế chính thống. Cũng chính TripleA đã đưa ra số liệu vào năm 2023, với mức sở hữu tài sản mã hoá trên 20 triệu người tại Việt Nam, đứng thứ 3 thế giới. “Rõ ràng sự tăng hay giảm số lượng người tham gia thị trường này không phụ thuộc vào chính sách của Việt Nam vì chúng ta đang chưa quyết định nó đi theo hướng nào”, ông Trung cho hay. KIẾN NGHỊ PHÁP LÝ CHO TIỀN ẢO, TIỀN SỐ Chuyên gia kinh tế Cấn Văn Lực cho rằng, xu hướng tiền kỹ thuật số do ngân hàng trung ương phát hành (CBCD) sẽ ngày càng phổ biến và một số quốc gia như Trung Quốc… đang có ý định đẩy mạnh quốc tế hóa đồng Nhân dân tệ điện tử (E-CNY). Vì vậy, Việt Nam cần sớm có nghiên cứu đầy đủ, nghiêm túc và có cách tiếp cận phù hợp với tiền kỹ thuật số nói chung và tiền CBCD nói riêng, bao gồm cả tiền CBCD do nước khác phát hành và mong muốn được giao dịch, chấp nhận tại Việt Nam. “Khung pháp lý cho tài sản số nói chung và tiền kỹ thuật số nói riêng theo hướng có thử nghiệm rồi đánh giá sơ kết để quyết định nhân rộng hay thu hẹp. Trước mắt, Chính phủ cũng cần sớm ban hành cơ chế thử nghiệm có kiểm soát (Sandbox”) trong hoạt động fintech trong lĩnh vực ngân hàng, sau đó là trong các lĩnh vực chứng khoán, bảo hiểm, quỹ đầu tư…vừa kiến tạo phát triển, vừa kiểm soát rủi ro. Theo đó, tham khảo kinh nghiệm quốc tế phù hợp là rất cần thiết”, ông Lực nói. Theo ông Lực, việc cấp phép và giám sát chặt chẽ các sàn giao dịch tiền kỹ thuật số (nhất là tiền ảo, tiền mã hóa) trong nước là cần thiết. Khi các sàn giao dịch trong nước hoạt động dưới sự quản lý của cơ quan nhà nước, nhà đầu tư sẽ có môi trường giao dịch an toàn hơn. Điều này cũng hạn chế dòng tiền chảy ra nước ngoài thông qua các sàn giao dịch không rõ ràng… Ông Lực kiến nghị nghiên cứu áp dụng chính sách thuế đối với giao dịch tiền kỹ thuật số nói chung và tiền mã hóa nói riêng, vừa là biện pháp quản lý, vừa giúp tăng thu ngân sách. Các quốc gia tiên tiến như Mỹ, Singapore đã áp dụng các mô hình thuế đối với tiền mã hóa. Việt Nam hoàn toàn có thể học hỏi kinh nghiệm này để vừa tận dụng tiềm năng kinh tế, vừa thúc đẩy sự minh bạch trong thị trường. NGỌC MAI Báo cáo của tổ chức TripleA tại Singapore cho biết, Việt Nam hiện có khoảng 17 triệu người sở hữu tài sản mã hóa, chiếm 17% dân số, đứng thứ 5 toàn cầu. So với số liệu trung bình dân số toàn cầu ở mức 6,5% thì đây là con số rất lớn. Quản lý cách nào? Tiền số được kỳ vọng sẽ sớm có khuôn khổ pháp lý Thủ tướng Chính phủ mới đây chỉ đạo Bộ Tài chính khẩn trương hoàn thiện hồ sơ Nghị quyết thí điểm về quản lý tài sản ảo, trình Thường trực Chính phủ trước ngày 13/3. Động thái trên nhấn mạnh tính cấp thiết của việc xây dựng một khung pháp lý hoàn chỉnh cho thị trường tài sản số tại Việt Nam, nhất là trong bối cảnh lĩnh vực này đang phát triển mạnh nhưng vẫn thiếu các quy định cụ thể. 17 TRIỆU NGƯỜI VIỆT SỞ HỮU TÀI SẢN MÃ HÓA: phát triển rất nhiều. “Sáp nhập bộ, ngành chỉ liên quan đến cán bộ, công chức, viên chức nên khó khăn, vướng mắc gặp phải không nhiều, nếu có thì cũng có phương án giải quyết thuận lợi và nhanh chóng. Nhưng sáp nhập tỉnh thì phức tạp hơn vì liên quan trực tiếp đến mỗi người dân, đến tâm tư, tình cảm, cần tạo ra sự đồng thuận”, ông Chức nói. Qua những lần sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh, bên cạnh những thành công, theo ông Chức cũng có những bất cập, hạn chế, dẫn đến những định kiến nhất định về chuyện “nhập vào rồi lại tách ra”. Do đó, trong lần sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh lần này, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội cho rằng, phải làm sao để vừa đáp ứng yêu cầu về tiến độ nhưng cũng phải khoa học, có tính ổn định lâu dài, nhận được sự đồng thuận cao trong nhân dân. “Sáp nhập tỉnh là việc cấp thiết “chỉ bàn làm, không bàn lùi”, nhưng phương án đưa ra cần phải được nghiên cứu kỹ lưỡng, đặt lợi ích chung lên trên hết, phục vụ cho sự phát triển”, ông Chức nói. HY SINH LỢI ÍCH RIÊNG ĐỂ ĐẠT MỤC TIÊU LỚN Trong các tiêu chí, tiêu chuẩn để nghiên cứu sáp nhập tỉnh, ngoài diện tích, dân số, một vấn đề cũng nhận được nhiều ý kiến là sự tương đồng về văn hóa, xã hội và mối liên kết vùng (6 vùng kinh tế - xã hội gồm: vùng trung du và miền núi phía Bắc, vùng đồng bằng sông Hồng, vùng Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung, vùng Tây Nguyên, vùng Đông Nam bộ và vùng đồng bằng sông Cửu Long). Theo ông Chức, văn hóa ngày nay cũng đã có sự khác biệt, đó là sự thống nhất trong đa dạng; chủ động hội nhập nhưng không hòa tan. Do đó, việc sáp nhập các tỉnh, thành lại với nhau ở thời điểm này có nhiều thuận lợi hơn so với trước. Đối với việc lựa chọn tên gọi và “thủ phủ” của tỉnh sau khi sáp nhập, ông Chức cho rằng, đây đều là những vấn đề quan trọng, cần tạo sự đồng thuận trên tinh thần lợi ích chung, vì sự phát triển. Nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội nêu ví dụ, nhập 3 tỉnh vào làm một thì lấy mỗi nơi một chữ làm tên gọi, có hợp không? Nếu phù hợp thì tốt, nhưng không hợp, đặt tên mới thế nào, hoặc lựa chọn tên một tỉnh có được không? “Tất cả chúng ta phải vì lợi ích chung, sẵn sàng hy sinh lợi ích riêng để đạt mục tiêu lớn nhất là sáp nhập các tỉnh lại với nhau, tạo ra diện mạo mới, sự phát triển mới”, ông Chức bày tỏ quan điểm. Tương tự đối với việc lựa chọn “thủ phủ” sau khi sáp nhập tỉnh, ông Chức nói “không bao giờ có thể hài lòng được cho tất cả, đặt ở tỉnh này thì tỉnh kia lại xa”. Cho nên, theo ông mỗi người phải tự thích nghi với tình hình mới, vì lợi ích chung, vì sự phát triển, chấp nhận thiệt thòi cá nhân. Ngoài ra, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội lưu ý, khi hai tỉnh sáp nhập làm một nên lấy một trung tâm đã có làm “thủ phủ”, tránh việc phải xây thêm trụ sở mới, rất tốn kém. “Hiện nay trụ sở hành chính tỉnh nào cũng khang trang, đẹp đẽ cả, nếu không sử dụng, bỏ đi, làm mới thì rất tốn kém, lãng phí”, ông Chức nói. VĂN KIÊN vì sợ mà bỏ qua thời cơ lớn”, ông Chi chia sẻ. Theo nguyên Chủ tịch Khánh Hòa, việc sáp nhập Khánh Hòa và Phú Yên không chỉ là một quyết định đúng đắn về mặt chiến lược, mà còn mở ra cánh cửa mới cho sự phát triển kinh tế, xã hội, và văn hóa của khu vực. Về địa điểm đặt trụ sở tỉnh mới nếu sáp nhập, ông Chi bày tỏ sự ủng hộ tuyệt đối với lựa chọn thành phố Nha Trang. Bởi theo ông, thành phố Tuy Hòa và thành phố Nha Trang là hai địa phương khác nhau, có sự chênh lệch nhau rất lớn. Với các điều kiện vượt trội về cơ sở hạ tầng, giao thông đường biển, đường không, đường sắt và đường bộ, Nha Trang không chỉ là trung tâm kinh tế của khu vực mà còn là điểm kết nối quan trọng cho phát triển trong tương lai. “Từ trước đến nay, Nha Trang vẫn luôn là trung tâm phát triển và xứng đáng là thủ phủ của tỉnh mới”, ông Chi khẳng định. THANH THANH
RkJQdWJsaXNoZXIy MjM5MTU3OQ==