Tiền Phong số 62

xuất khẩu lao động? 15 n Thứ Hai n Ngày 3/3/2025 XÃ HỘI BÁN DẪN CON GÀ-QUẢ TRỨNG GS.TS Chử Đức Trình, Hiệu trưởng Trường ĐH Công nghệ (ĐH Quốc gia Hà Nội), cho rằng, nếu nhìn vào thị trường bán dẫn ở các quốc gia hàng đầu như Mỹ, có thể thấy tỉ lệ nhân lực trình độ tiến sĩ rất nhiều. Nhưng ở Việt Nam, do đặc thù phân khúc đầu tư của các doanh nghiệp, tỉ lệ nhân lực trong giai đoạn trước mắt sẽ tập trung nhiều hơn ở nhóm nhân lực tốt nghiệp ĐH và thạc sĩ. Nếu phân chia theo chương trình đào tạo hệ chuẩn và hệ tài năng thì ở Việt Nam, số lượng nhân lực tốt nghiệp ĐH hệ tài năng chưa nhiều. Ông Trình cho hay, bán dẫn là một ngành công nghiệp rộng lớn. Lao động khi tốt nghiệp các chương trình đào tạo liên quan có thể làm việc trong nhiều môi trường, nhiều lĩnh vực công nghiệp khác nhau nếu đạt được chuẩn đầu ra về kiến thức, kĩ năng cơ bản và định hướng chuyên sâu của chương trình đào tạo, trong đó có các nội dung tập trung vào định hướng vi mạch bán dẫn. Sản phẩm chính của ngành công nghiệp vi mạch bán dẫn là chế tạo được một hệ thống điện tử trên một đế bán dẫn. Nên sinh viên học chuyên sâu thiết kế vi mạch có thể làm việc trong ngành thiết kế vi mạch bán dẫn hoặc trong các doanh nghiệp thiết kế các hệ thống điện tử nói chung và tương tự cho các mảng khác như chế tạo, đóng gói, kiểm thử. Như vậy, theo ông Trình, khác với một số chương trình đào tạo, nhân lực chỉ làm trong một ngành, một nghề thì với chương trình này, nhân lực có thể làm cho nhiều ngành nghề khác nhau, không chỉ là bán dẫn. Nhân lực chất lượng cao đào tạo ở Việt Nam không chỉ làm việc ở Việt Nam mà còn có thể làm việc trong các thị trường lao động khác trên thế giới như Đài Loan (Trung Quốc), Đức, Mỹ... Khi đó, các doanh nghiệp tại Việt Nam cũng phải cạnh tranh với các công ty trên thế giới để tuyển dụng lao động. Bán dẫn là ngành công nghiệp toàn cầu, trên thế giới không nước nào làm chủ hoàn toàn cả chuỗi dây chuyền công nghiệp. Đồng thời, bán dẫn cũng yêu cầu nhân lực giỏi, tài năng. Do đó, cộng đồng doanh nghiệp công nghiệp bán dẫn tại Việt Nam cần có những bức tranh dự đoán về bản đồ nhân lực cho các giai đoạn ngắn hạn, trung hạn và đặc biệt dài hạn 10 năm, 20 năm. Dựa trên bản đồ nhân lực, cơ sở giáo dục ĐH triển khai các chương trình và định hướng đầu tư để đáp ứng nhu cầu. Doanh nghiệp đồng hành và tham gia sâu vào quá trình định hướng và đào tạo cùng với các cơ sở giáo dục. Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Hoàng Minh Sơn nhấn mạnh, nhiệm vụ đầu tiên và quan trọng nhất là tăng cường năng lực cho các cơ sở giáo dục ĐH, cả về đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất, công nghệ, chương trình đào tạo, công cụ phần mềm… Bên cạnh đó, liên quan đến đầu ra của nguồn nhân lực, ông Sơn cho rằng, Chính phủ có chủ trương, nhưng đó là tổng nhân lực có thể cần cho toàn ngành công nghiệp bán dẫn, trong đó cơ cấu nhân lực rất khác nhau, từ trình độ cao đẳng đến ĐH, thạc sĩ, tiến sĩ. Tại Việt Nam, nhu cầu nhân lực cần ở ngành nào, trình độ nào phụ thuộc nhiều vào sự đầu tư của tập đoàn nước ngoài. Đây là bài toán “con gà-quả trứng”, các tập đoàn nước ngoài muốn đầu tư vào phải nhìn thấy nguồn nhân lực có sẵn, nhưng để thu hút và đào tạo sinh viên, cần đặt ra chỉ tiêu đào tạo, kế hoạch đào tạo, phải biết dự báo nhu cầu nguồn nhân lực. Bài toán này, theo ông Sơn, rất khó. Vì vậy, khi mở ngành đào tạo, các trường vẫn cần tiếp cận những chương trình đào tạo theo ngành rộng. NGHIÊM HUÊ Tháng 9/2024, Chính phủ phê duyệt chương trình Phát triển nguồn nhân lực ngành công nghiệp bán dẫn đến năm 2030, định hướng đến năm 2050. Mục tiêu đến năm 2030 đào tạo ít nhất 50.000 nhân lực có trình độ từ ĐH trở lên phục vụ ngành công nghiệp bán dẫn. Trong đó, đào tạo ít nhất 42.000 kỹ sư, cử nhân; có ít nhất 7.500 học viên thạc sĩ và 500 nghiên cứu sinh; đào tạo ít nhất 15.000 nhân lực trong công đoạn thiết kế, ít nhất 35.000 nhân lực trong công đoạn sản xuất, đóng gói, kiểm thử và các công đoạn khác của ngành công nghiệp bán dẫn; đào tạo ít nhất 5.000 nhân lực có chuyên môn sâu về trí tuệ nhân tạo phục vụ ngành công nghiệp bán dẫn. riêng. Chúng ta dò đá qua sông để chọn ra cái tốt nhất, phù hợp nhất”, ông Thịnh nói. Theo ông Thịnh, giáo trình là những tiêu chuẩn do doanh nghiệp đang thiếu nhân lực, cần lao động đặt ra, như TSMC (tập đoàn dẫn đầu thế giới về bán dẫn của Đài Loan, Trung Quốc), khi đó, trường ĐH Việt Nam theo chuẩn đó để giảng dạy. Đây là cách NIC đang đồng hành với các cơ sở đào tạo, tập đoàn Việt Nam. Có nghĩa là đào tạo theo chuẩn đặt hàng của doanh nghiệp. NIC đã thí điểm mô hình đào tạo giao thông thông minh, đặt hàng đào tạo giáo viên 2 năm tại Việt Nam và 2 năm làm việc cho các công ty bán dẫn của Đài Loan, Trung Quốc. Như vậy, giảng viên vừa có chuyên môn vừa biết thị trường thực tiễn, khi quay về giảng dạy cho sinh viên tại Việt Nam, họ sẽ biết những gì phù hợp với thị trường tiềm năng. “Cái khó nhất là mục tiêu đào tạo 50.000 kĩ sư nhưng 5.000 sinh viên tốt nghiệp đã thất nghiệp thì không ổn. Do đó, giải pháp mạnh là đi làm việc với nơi đặt đầu bài. Ví dụ, TP Đà Nẵng làm việc với các doanh nghiệp chuẩn bị đầu tư vào đây. Vị trí việc làm như nào, kĩ năng như thế nào để chuẩn bị đào tạo đáp ứng. Do đó, các tỉnh, thành phố khảo sát đơn vị chuẩn bị đầu tư và chúng ta có thời gian chuẩn bị”, ông Thịnh phân tích. Với người học, đại diện NIC cho rằng cần chia ra thành các nhóm như nhóm những người đã tốt nghiệp ngành gần có thể đào tạo các khóa ngắn hạn (9 tháng trở lại) để chuyển đổi ngay và NIC đang tập trung cho nhóm này. Nhóm này làm việc cho các công ty tại Việt Nam cần nhiều nhân công lao động. Nhóm thứ hai được đào tạo bài bản dài hạn, nhiệm vụ các trường ĐH cần nâng cấp cơ sở vật chất, giảng viên. Cần có thêm phòng lab, có học bổng cho sinh viên. Chính phủ cần hỗ trợ các trường. Chính sách luôn có độ trễ nhưng tín hiệu vui hiện nay, doanh nghiệp và trường ĐH tự chạy khi nhìn thấy nhu cầu của thị trường. Tín hiệu nữa là Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị về đột phá trong khoa học, Nghị quyết thí điểm của Quốc hội về khoa học công nghệ và chuyển đổi số. Trong đó có chính sách hỗ trợ các nhà máy sản xuất bán dẫn. Ông Thịnh đánh giá, Việt Nam có triển vọng, cách làm đi đúng hướng, nhưng nhanh hay chậm phụ thuộc nguồn lực Nhà nước hỗ trợ như thế nào, khả năng xúc tiến với các nước ra sao. NGHIÊM HUÊ Dự thảo nêu rõ, các quy định về cơ cấu tổ chức của bộ tại Nghị định này không áp dụng đối với Bộ Quốc phòng, Bộ Công an. CỤC TRƯỞNG ĐƯỢC BAN HÀNH VĂN BẢN CÁ BIỆT Dự thảo nêu rõ, bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ là thành viên Chính phủ, người đứng đầu bộ và lãnh đạo công tác của bộ. Trong khi đó, thứ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan ngang bộ giúp bộ trưởng thực hiện nhiệm vụ do bộ trưởng phân công. Cấp thứ trưởng không kiêm người đứng đầu tổ chức, đơn vị thuộc bộ, trừ trường hợp đặc biệt. Đáng lưu ý, dự thảo dành hẳn một chương quy định về cơ cấu tổ chức của bộ sau hợp nhất, tinh gọn bộ máy, gồm: các vụ, văn phòng, thanh tra, cục (nếu có) và đơn vị sự nghiệp công lập. Như vậy, cơ cấu tổ chức của bộ không còn cấp tổng cục. Trong đó, bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ sẽ quyết định số lượng cấp phó của người đứng đầu vụ, văn phòng, thanh tra, cục, đơn vị sự nghiệp công lập bảo đảm bình quân không quá 3 người trên một đơn vị. Theo dự thảo, cục là tổ chức thuộc bộ, có tư cách pháp nhân, con dấu và tài khoản riêng. Cục trưởng được ban hành văn bản cá biệt, văn bản hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ về chuyên ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của cục. Việc thành lập cục phải đáp ứng đủ các tiêu chí: Có đối tượng quản lý về chuyên ngành; được phân cấp, ủy quyền của bộ trưởng; có khối lượng công việc yêu cầu phải bố trí từ 30 biên chế công chức trở lên. Cơ cấu tổ chức của cục gồm: Phòng, văn phòng, thanh tra (nếu có), chi cục (nếu có) và đơn vị sự nghiệp công lập (nếu có). KHÔNG TỔ CHỨC PHÒNG TRONG VỤ Về cấp vụ thuộc bộ, dự thảo nêu rõ, đây là tổ chức thực hiện chức năng tham mưu tổng hợp hoặc chuyên sâu, không có tư cách pháp nhân, không có con dấu và không có tài khoản. Vụ trưởng được ký thừa lệnh bộ trưởng các văn bản hướng dẫn, giải quyết, thông báo các vấn đề liên quan đến chuyên môn, nghiệp vụ thuộc chức năng, nhiệm vụ của vụ. Dự thảo lần 1 này nêu rõ về việc “không tổ chức phòng trong vụ”. Trường hợp vụ có nhiều mảng công tác và khối lượng công việc yêu cầu phải bố trí từ 30 biên chế công chức trở lên được cấp có thẩm quyền giao thì có thể thành lập phòng. Đối với cấp phòng thuộc cục, được thành lập khi có chức năng, nhiệm vụ tham mưu về quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực thuộc chức năng, nhiệm vụ của cục, hoặc được giao tham mưu về công tác quản trị nội bộ của cục; khối lượng công việc yêu cầu phải bố trí từ 7 biên chế công chức trở lên. Với cấp phòng thuộc chi cục (thuộc cục) được thành lập khi đáp ứng đủ các tiêu chí tương tự, và có khối lượng công việc yêu cầu phải bố trí từ 5 biên chế công chức trở lên. Về cấp phó, dự thảo quy định, với cấp phòng thuộc cục có từ 7-9 biên chế công chức được bố trí 1 cấp phó; có từ 10-15 biên chế công chức được bố trí không quá 2 cấp phó; có từ 16 biên chế công chức trở lên được bố trí không quá 3 cấp phó. Đối với phòng thuộc chi cục, có từ 5-7 biên chế công chức được bố trí 1 cấp phó; có từ 8 biên chế công chức trở lên được bố trí không quá 2 cấp phó. LUÂN DŨNG Bỏ cấp tổng cục, cơ cấu tổ chức các bộ mới thế nào? Căn cứ Luật Tổ chức Chính phÛ vừa được Quốc hội thông qua tại kỳ họp bất thường, Bộ Nội vụ đã xây dựng dự thảo Nghị định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức cÛa bộ, cơ quan ngang bộ. Cấp phòng thuộc cục có từ 7 - 9 biên chế công chức được bố trí 1 cấp phó (ảnh minh họa) Đối với đơn vị sự nghiệp công lập thuộc bộ không có chức năng quản lý nhà nước sẽ thực hiện cơ chế tự chủ, có tư cách pháp nhân, con dấu và tài khoản riêng.

RkJQdWJsaXNoZXIy MjM5MTU3OQ==