Tiền Phong số 45

5 n Thứ Sáu n Ngày 14/2/2025 THỜI SỰ lớn cho nhà đầu tư và ảnh hưởng đến an ninh năng lượng trong các năm tới. Vì vậy, để đảm bảo an ninh năng lượng, Việt Nam cần đa dạng hóa nguồn cung, đẩy mạnh năng lượng tái tạo, nâng cấp hạ tầng và thu hút đầu tư. ĐIỆN HẠT NHÂN - GIẢI PHÁP CHIẾN LƯỢC Ngày 3/1/2025, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã có Chỉ thị số 1/CT-TTg yêu cầu Bộ trưởng Công Thương chỉ đạo gấp rút triển khai, hoàn thành công tác đầu tư dự án Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận. Việc xây dựng nhà máy điện hạt nhân cùng với phát triển năng lượng tái tạo sẽ giúp đa dạng nguồn cung, bảo đảm an ninh năng lượng, cũng như chuyển dịch năng lượng xanh, giúp Việt Nam đạt mục tiêu Net Zero vào năm 2050. Từ thực tế ở Việt Nam, có thể nói đến nay, điện hạt nhân là giải pháp chiến lược cho việc cung cấp năng lượng ổn định, hiệu suất cao và phát thải CO2 thấp. Với ưu thế các nhà máy điện hạt nhân có thể hoạt động liên tục, không phụ thuộc thời tiết, với công suất khả dụng lên tới 92%, cao hơn nhiều so với điện khí hay năng lượng tái tạo và mức phát thải CO2 tương đương năng lượng gió và thấp hơn điện mặt trời, phát triển các dự án điện hạt nhân sẽ là một giải pháp chiến lược cho Việt Nam trong các năm tới. Thực tế cho thấy, nhiều quốc gia đã chọn phát triển điện hạt nhân để đảm bảo an ninh năng lượng và giảm phát thải. Hiện Pháp dẫn đầu EU về sản lượng điện hạt nhân và đang mở rộng thêm lò phản ứng. Nhật Bản tái khởi động lò phản ứng sau sự cố Fukushima, đặt mục tiêu trung hòa carbon vào 2050. Hàn Quốc cũng tập trung phát triển lò phản ứng module nhỏ (SMR) và xuất khẩu công nghệ. Trung Quốc theo thống kê có 55 lò phản ứng và đặt mục tiêu trở thành quốc gia sản xuất điện hạt nhân lớn nhất thế giới vào 2030. Sau khủng hoảng năng lượng toàn cầu, nhiều nước, bao gồm Mỹ, Anh, Pháp và Nhật Bản, cam kết tăng gấp ba công suất điện hạt nhân vào 2050. Châu Âu cũng đang dần thay đổi quan điểm, kéo dài tuổi thọ lò phản ứng và đầu tư vào công nghệ hạt nhân mới. THÁCH THỨC PHÁT TRIỂN Việt Nam tái khởi động chương trình điện hạt nhân để đáp ứng nhu cầu năng lượng và giảm phát thải. Tuy nhiên, để khởi động lại việc phát triển các dự án điện hạt nhân, có hàng loạt đầu việc phải gấp rút triển khai. Trong đó việc xây dựng các khung pháp lý về đảm bảo an toàn hạt nhân, rủi ro sự cố, chuẩn bị nhân lực vận hành, huy động vốn đầu tư cùng các nguồn lực khác về vận hành, bảo trì… Trước mắt Việt Nam cần xây dựng chiến lược dài hạn và lộ trình phát triển điện hạt nhân để đáp ứng nhu cầu năng lượng tăng cao và cam kết giảm phát thải. Cùng đó, Việt Nam cần tăng cường hợp tác quốc tế với những nước đã sở hữu và phát triển dự án điện hạt nhân như Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc, Pháp, Hoa Kỳ nhằm tiếp cận công nghệ hiện đại và đảm bảo an toàn vận hành. Đồng thời, huy động vốn từ nguồn tài trợ quốc tế, hợp tác công tư, và xây dựng cơ chế tài chính minh bạch để thu hút đầu tư. Một công tác chuẩn bị quan trọng nữa là hoàn thiện khung pháp lý và đẩy mạnh truyền thông, yếu tố quan trọng, giúp nâng cao nhận thức và tạo sự đồng thuận trong cộng đồng. Trong đó, khẩn trương hoàn thành và thông qua dự án Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi), đáp ứng các yêu cầu về phát triển dự án điện hạt nhân của IAEA, sửa đổi, bổ sung Quy hoạch điện VIII, Luật Điện lực và các văn bản liên quan để tạo hành lang pháp lý triển khai các dự án. Việc tái khởi động chương trình điện hạt nhân là lựa chọn chiến lược và tất yếu của Việt Nam trong bối cảnh nhu cầu năng lượng ngày càng tăng, áp lực giảm phát thải khí nhà kính và đảm bảo an ninh năng lượng. Mặc dù còn nhiều thách thức như vấn đề an toàn, chi phí đầu tư và sự đồng thuận xã hội, nhưng với những điều kiện thuận lợi như nhu cầu điện cao, cam kết giảm phát thải và hợp tác quốc tế, Việt Nam hoàn toàn có cơ hội phát triển điện hạt nhân một cách bền vững. Khi triển khai thành công, điện hạt nhân không chỉ giúp đảm bảo nguồn cung năng lượng ổn định mà còn góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường trong tương lai. PGS.TS NGÔ TRÍ LONG Cánh đồng điện gió Tân Thuận ẢNH: TTXVN Báo cáo đánh giá môi trường chiến lược điều chỉnh Quy hoạch Phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 vừa được Bộ Công Thương đưa ra đầu tháng 2/2025, nhiều thách thức đang đặt ra trong việc đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia của Việt Nam. Theo Bộ Công Thương, tới thời điểm hiện tại, có nhiều biến động lớn trong phát triển điện lực, như với dự báo tăng trưởng kinh tế và định hướng các ngành kinh tế, nhu cầu điện giai đoạn 2026 -2030 sẽ tăng mạnh, do vậy việc huy động các nguồn và lưới điện sẽ có sự thay đổi mạnh mẽ để đáp ứng nhu cầu điện cho phát triển kinh tế xã hội trong bối cảnh nhiều dự án nguồn điện chạy nền - lưới điện trong Quy hoạch điện VIII gặp nhiều khó khăn vướng mắc về cơ chế chính sách. Nguy cơ thiếu điện cho phát triển kinh tế, xã hội trong các năm tới trong thực tế đã nhiều lần được EVN và bản thân Bộ Công Thương thừa nhận theo từng giai đoạn phát triển. Với bối cảnh hiện nay, việc các thủy điện lớn đã cạn kiệt, nhiệt điện than không có khả năng triển khai do áp lực thực hiện các cam kết thực hiện mục tiêu Net Zero về phát thải các bon của Việt Nam đến năm 2050, năng lượng tái tạo dù có dư địa nhưng thiếu cơ chế gỡ các vướng mắc và không ổn định trong khi điện gió, điện rác cần chủ trương mạnh mẽ để triển khai… đang là những áp lực rất lớn. Việc hàng loạt dự án điện lớn chậm tiến độ nhiều năm càng là yếu tố gây áp lực cho việc đảm bảo điện cho nền kinh tế trong các năm tới. Theo thống kê của Bộ Công Thương, từ nay đến 2030, các dự án điện khí LNG, chỉ có 3 dự án (Nhơn Trạch 3, 4 và Hiệp Phước khoảng 2.824 MW) đang được xây dựng trong số 13 dự án với tổng công suất khoảng 22.400MW. Các dự án sử dụng khí trong nước cũng đối mặt nhiều rủi ro về tiến độ trước 2030 do trữ lượng và tiến độ nguồn khí chưa rõ ràng. Các dự án điện than, điện gió ngoài khơi cũng có nhiều rủi ro về tiến độ do cam kết giảm phát thải, do yêu cầu vốn đầu tư lớn, công nghệ và thời gian chuẩn bị và xây dựng kéo dài. Trước những vấn đề trên, Chính phủ đã báo cáo Bộ Chính trị về chủ trương tái khởi động lại điện hạt nhân. Với các căn cứ trên có thể sẽ làm thay đổi mục tiêu, nội dung của Quy hoạch điện VIII như nhu cầu điện, cơ cấu nguồn tối ưu hệ thống truyền tải, nhu cầu sử dụng đất, vốn đầu tư. PHẠM TUYÊN Áp lực đảm bảo an ninh năng lượng Hiện trạng nguồn điện tại Việt Nam Giai đoạn 2016-2024, sản lượng điện sản xuất toàn quốc tăng trưởng trung bình 6,8%/năm từ khoảng 182 tỷ kWh năm 2016 lên 308 tỷ kWh năm 2024. Sản lượng điện sản xuất từ nguồn năng lượng tái tạo có bước tăng nhảy vọt từ khoảng 300 triệu kWh năm 2016 lên khoảng 40 tỷ kWh năm 2024 do các nguồn điện gió và điện mặt trời được đẩy mạnh phát triển gần đây. Sản lượng nhiệt điện than tăng trưởng nhanh nhất với tốc độ trung bình khoảng 10,6%/năm từ khoảng 68 tỷ kWh năm 2016 lên 153 tỷ kWh năm 2024. Sản lượng điện sản xuất của thủy điện tăng khoảng 4,3%/năm trong giai đoạn này từ 64 tỷ kWh lên 89 tỷ kWh. Sản lượng điện sản xuất từ các nguồn điện khí duy trì trên 40 tỷ kWh trong các năm 2016 - 2019. Tuy nhiên trong các năm gần đây, nguồn điện khí không được ưu tiên huy động do suy giảm nguồn cấp khí và chi phí sản xuất điện cao, sản lượng điện khí giảm còn 22 tỷ kWh trong năm 2024. Lượng điện nhập khẩu trong các năm gần đây tăng từ 3 tỷ kWh lên 5 tỷ kWh, trừ năm 2021 sản lượng giảm còn khoảng 1,4 tỷ kWh (do tạm dừng nhập khẩu điện từ Trung Quốc). Trước những yêu cầu về tăng trưởng tiêu thụ điện, theo thông tin của PV Tiền Phong, Bộ Công Thương đã xây dựng 2 kịch bản cấp điện trong Quy hoạch điện VIII điều chỉnh với sự tham gia của các dự án điện hạt nhân. Theo Kịch bản 1, nhà máy điện Hạt nhân Ninh Thuận I (công suất 2 tổ máy 1.200MW) sẽ đi vào vận hành giai đoạn 2031 - 2035 trong khi nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận II (2 tổ máy 1.200MW) sẽ vận hành giai đoạn 2036 - 2040. Cũng từ sau năm 2030, sẽ có 3 nhà máy điện dùng LNG đi vào vận hành, khí Cá Voi Xanh dự kiến đưa vào bờ giai đoạn 2031 - 2035, tuân thủ định hướng chuyển đổi nhiên liệu trong Quy hoạch điện VIII. Các nhà máy nhiệt điện than sẽ đốt kèm sinh khối/amoniac sau 20 năm vận hành, các nhà máy điện khí LNG sẽ đốt kèm khí hydro sau 10 năm vận hành như trình bày ở trên (trừ những nhà máy đạt trên 40 năm tuổi đến 2050). Việt Nam sẽ không phát triển mới nguồn LNG so với Quy hoạch điện VIII đồng thời sẽ tăng nhập khẩu điện từ Trung Quốc thêm 300 MW lên 1.000 MW. Kịch bản 2, giai đoạn 2031 - 2035 sẽ đưa cả hai nhà máy điện Hạt nhân Ninh Thuận I và II (tổng công suất 4.800MW) đi vào vận hành. Toàn bộ 14 nhà máy LNG tại Quy hoạch điện VIII cũng được đưa vào vận hành giai đoạn 2026 - 2030. Điện nhập khẩu Trung Quốc tăng thêm 3.000 MW so với kịch bản 1 lên 4.000 MW để đảm bảo nhu cầu điện trong nước. THỤC QUYÊN Việt Nam

RkJQdWJsaXNoZXIy MjM5MTU3OQ==