Tiền Phong số 44

ngoại của tôi, trên đình làng có viết một câu như sau: “Thơ ca không làm ra lúa vàng, gạo trắng nhưng làm ra giấc mơ cho người gieo trồng". Ngày càng có nhiều người được công nhận (hoặc tự xưng) là nhà thơ. Theo ông, làm sao để định nghĩa thế nào là một nhà thơ trong thời đại này? Không có một định nghĩa hoàn hảo nào cho khái niệm “nhà thơ”. Tôi cho rằng, có thể gọi một người là nhà thơ nếu người đó yêu thơ ca, sáng tác thơ ca một cách thường xuyên, liên tục và công bố những tác phẩm tới công chúng. Không nhất thiết phải trở thành hội viên của Hội Nhà văn Việt Nam để được coi là một nhà thơ. Điều quan trọng hơn là làm thế nào để trở thành một nhà thơ có tên tuổi, tầm vóc, có những tác phẩm gây tiếng vang, được công chúng đón nhận. Theo tôi, có hai yếu tố chính. Thứ nhất, anh phải khám phá được những vẻ đẹp của cuộc sống, con người mà người khác chưa nhìn thấy. Thứ hai, bằng tài năng của mình, anh phải biến những điều mình phát hiện được thành một tác phẩm sống động, quyến rũ và có sức lan tỏa, giúp truyền tải một thông điệp nào đó quan trọng với cộng đồng. Chẳng hạn như bài thơ Bếp lửa của nhà thơ Bằng Việt hay Đò Lèn của nhà thơ Nguyễn Duy được nhiều thế hệ người Việt yêu thích không phải vì nội dung xuất sắc hay kỹ thuật làm thơ điêu luyện, mà là bởi thông điệp đầy xúc động về tình cảm bà cháu. Nhà thơ Huy Cận từng viết: “Sống vững chãi bốn nghìn năm sừng sững/ Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa” để nói về những nhà văn, nhà thơ trong thời chiến vừa bản lĩnh, dũng cảm, lại vừa bay bổng, tài hoa. Trong thời bình, tinh thần “lưng đeo gươm, tay mềm mại bút hoa” sẽ được thể hiện như thế nào? Những câu thơ trên tuy được nhà thơ Huy Cận sáng tác trong thời chiến, nhưng vẫn còn nguyên giá trị trong thời đại ngày nay. Trong thời bình, “gươm” chính là tượng trưng cho tinh thần chống lại cái ác, bảo vệ cái thiện qua tác phẩm của mình. Cái ác có thể là sự vô cảm, vô ơn, sự bất công,… Cái ác bây giờ không hiển hiện ra trước mắt, mà lẩn khuất đâu đó trong đời sống hằng ngày, thậm chí trong chính con người chúng ta. Anh có thể tạo ra một thể loại thơ mới mẻ, dùng những ngôn từ rất hoa mỹ, nhưng nếu tác phẩm của anh không vì con người, không hướng thiện thì “tay” mãi mãi không thể “mềm mại bút hoa” được. Cảm ơn ông. VIỆT KHÔI (thực hiện) 9 n Thứ Năm n Ngày 13/2/2025 VĂN HÓA - GIẢI TRÍ trẻ con khóc lặng đi vì khát nước, khát sữa. Mệt mỏi, đói khát, nhiều người dựa lưng vào góc tường mà đầu choáng, người ớn lạnh… Lương thực và đạn dược trong pháo đài bắt đầu cạn dần. Nguy cấp nhất là không có quân chi viện vì quân địch đã bao vây tứ phía. Quân xâm lược chiếm được phần nóc pháo đài và cho người đến cửa hầm bắc loa gọi hàng, đáp lại chúng chỉ là những loạt AK từ bên trong bắn ra. “Những ngày tiếp theo, số lượng người thương vong ngày càng tăng. Pháo đài tối om và ngột ngạt bởi mùi tử khí, máu me, tiếng trẻ con khóc không thành tiếng vì khát nước, khát sữa... Mất 5 ngày đêm vẫn chưa chiếm được pháo đài khiến quân thù cay cú, điên cuồng. Ngày 22/2/1979, chúng đặt bộc phá giật sập cửa hầm, dùng lựu đạn cay thả xuống các lỗ thông hơi, sau đó đổ xăng xuống hầm rồi phóng hỏa. Pháo đài rung chuyển cùng hàng chục, hàng trăm tiếng nổ chói tai rung óc. Hơi khói cay xè, đen đặc cuồn cuộn ùa vào từng căn phòng trong pháo đài. Tiếng trẻ con sặc sụa rồi lặng đi. Mấy đồng chí thương binh kêu nấc lên hai, ba tiếng rồi lịm. Tôi bò sờ soạng lần về lỗ thông hơi để thở nhưng từ ngoài địch nhét lựu đạn cay vào. Qua ánh lửa, tôi thấy đồng bào mình ôm nhau nằm la liệt, mắt nhìn về phía xa như mong ước điều gì… Tôi cảm thấy một thứ khói khủng khiếp xộc vào họng cháy bỏng và lửa cháy bừng bừng. Địch phun hơi độc hóa học và phun xăng vào pháo đài, tôi hoa mắt rồi lịm đi. Tỉnh dậy, tiếng nổ vẫn ầm ầm, máu ứa ra từ miệng, tai đặc quánh. Tôi bật dậy, kêu lên “Còn đồng chí nào sống không?”. May mắn có tiếng trả lời, tất thảy có 6 người lính bò tới nắm tay nhau, thề bám trụ, tìm cách thoát thân. Ai cũng gắng gượng dồn hết sức lực cào bới đất đá, tìm đường ra khỏi pháo đài, mất nhiều tiếng đồng hồ chúng tôi mới nhìn thấy ánh sáng. Lợi dụng đêm tối, chúng tôi chui ra khỏi hang và rút đi”, cựu chiến binh Nông Văn Phjeo xúc động kể lại. HOA ĐƯA HƯƠNG NƠI CHIẾN LŨY Trò chuyện với phóng viên Tiền Phong, ông Đào Đức Cường không kìm được nước mắt tâm sự: Hành trình tìm cha mẹ và các em của ông bị gián đoạn tới tận ngày 5/3/1979 khi Trung Quốc rút quân. Vào được thị trấn Đồng Đăng, ông theo chỉ dẫn của những nhân chứng sống sót mà chạy một mạch lên pháo đài. Xác người được chôn dọc theo con dốc. Trên đỉnh pháo đài, những lô cốt đổ nghiêng, vỡ toác vì bộc phá. Lối xuống các tầng hầm bị đất đá lấp kín, không có cách nào tiếp cận được bên trong. Cả 7 anh chị em cùng cháu ruột của ông Cường đã mãi mãi nằm lại trong pháo đài, cùng hàng trăm dân thường và bộ đội Việt Nam. Tôi cũng thường gặp bà Lê Thị Nga (SN 1963) nhà ở trung tâm thị trấn Đồng Đăng cùng nhóm thiện tâm địa phương có mặt tại pháo đài mang hoa quả, đèn nhang cúng tiến chiến sỹ và đồng bào tử nạn. Bà Nga cho biết, sâu trong pháo đài cũng có linh hồn của cha và anh trai của mình. Áp Tết này, nhóm thiện tâm trồng những nhóm hoa tươi xung quanh chân pháo đài. Xuân sang, hoa đưa hương thơm ngát… Ông Đào Đức Cường cho hay, sau biến cố tháng 2/1979, ông chuyển ngành sang làm nhân viên đường sắt. Ông chăm sóc bố mẹ già và xây dựng cuộc sống mới. Ông nhiệt tình tham gia các công tác ở địa phương, là thành viên văn nghệ của Hội cựu chiến binh, Hội người cao tuổi... (còn nữa) N.D.C Lũy thép pháo đài Đồng Đăng ẢNH: D.T Ông Đào Đức Cương nghẹn lời kể chuyện tìm anh em ở pháo đài Đồng Đăng ẢNH: DUY CHIẾN Thi phẩm Dáng đứng Việt Nam của cố thi sĩ, liệt sĩ Lê Anh Xuân ra đời năm 1968, ghi lại tư thế hiên ngang của các chiến sĩ quân Giải phóng trong trận đánh ác liệt tại sân bay Tân Sơn Nhất: “Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhất/Nhưng anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng/Và anh chết trong khi đang đứng bắn/Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng”. Nhưng chọn câu thơ mới hơn, phù hợp với tâm thế Kỷ nguyên vươn mình của đất nước cũng không dễ. Nhắc đến đề tài đất nước trong thi ca, nhiều người Việt nghĩ ngay đến Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm: “Đất là nơi anh đến trường/ Nước là nơi em tắm/Đất nước là nơi ta hò hẹn/Đất nước là nơi anh đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”. Hay Đất nước của Nguyễn Đình Thi: “Người ra đi đầu không ngoảnh lại/Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”… Những vần thơ ấy đã sống trong tâm trí của nhiều thế hệ học trò. Nếu chọn đề tài Ngày thơ Việt Nam từ những bài thơ nổi tiếng đã khẳng định được sức sống qua sự gạn lọc khắc nghiệt của thời gian thì dễ bị coi là cũ, nhàm. Nhưng nếu chọn thơ mới ra đời vài năm gần đây có khi tranh luận còn gay gắt hơn. Lấy cảm hứng từ những tập thơ giành giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam trong 2 năm gần đây cũng không ổn, vì chúng gây băn khoăn, tranh luận ngay từ những người làm văn, làm thơ chuyên nghiệp. Có nhà thơ gợi ý, năm sau, Hội Nhà văn Việt Nam nên mở cuộc thi dành cho độc giả cùng các nhà thơ chuyên và không chuyên trong nước để tìm chủ đề thơ cho Ngày thơ Việt Nam. Có thể sẽ có những đáp án thú vị hơn. Nhưng bao nhiêu người sẽ hào hứng với cuộc thi ấy? Bây giờ, người ta có thật sự quan tâm đến Ngày thơ Việt Nam không? Đừng nói công chúng, ngay đến những người làm văn chương chuyên nghiệp cũng không thật quan tâm. Nhà thơ Đặng Huy Giang xem Ngày thơ Việt Nam là “ngày hội hè, làm thế nào cũng được, cốt vui”. Phan Thị Thanh Nhàn, tác giả Hương thầm những năm trước rất ham “xê dịch” từ trong nước ra nước ngoài song hiếm khi thấy bà xuất hiện ở Ngày thơ Việt Nam. Đêm thơ năm ngoái ở Hoàng thành Thăng Long, khi chủ nhân giải thưởng thơ 2024 Nguyễn Phúc Lộc Thành lên đọc thơ, khán giả thưa thớt, ghế trống rất nhiều. Không khí ấy hoàn toàn khác xa với cảnh cố thi sĩ Hoàng Nhuận Cầm mấy chục năm trước sang sảng đọc thơ ở sân khấu ký túc xá Mễ Trì - Đại học Quốc gia Hà Nội: “Nếu tôi chết hãy tìm tôi nhé/Trời xanh như tất cả còn xanh/ Xin đa tạ rất nhiều em gái/Cho mấy lần tôi được làm anh…”. Kết thúc buổi giao lưu với nhà thơ, khán giả trẻ ùa lên vây quanh Hoàng Nhuận Cầm tặng hoa, xin chữ ký của anh. Bây giờ không nhiều người làm văn chương chuyên nghiệp được vây quanh xin chữ ký. Hiện tượng ấy chỉ thường xuyên xảy ra với tác giả ăn khách Nguyễn Nhật Ánh. Không phải văn chương bây giờ dở hơn mà bởi bây giờ người ta có quá nhiều thứ để xem, để nghe, để nhìn… Cho nên, người ta rào rào khen, chê về chủ đề thơ Tổ quốc bay lên trên mạng xã hội, chắc gì đã quan tâm tới thơ nói chung, tết thơ nói riêng? Có khi cũng chỉ là một cách đu “trend”. NÔNG HỒNG DIỆU Điểm nhấn của Ngày thơ Việt Nam 2025 là đêm thơ “Tổ quốc bay lên” diễn ra lúc 20 giờ tối 12/2 tại Nhà hát Phạm Thị Trân, TP Hoa Lư, Ninh BÌnh Ai quan tâm Ngày thơ Việt Nam? “Mãi đến sau năm 2000, người dân Đồng Đăng mới có điều kiện khai quật pháo đài. Hơn 30 bộ hài cốt được tìm thấy ở tầng hầm đầu tiên. Đến nay vẫn chưa ai tiếp cận được tầng hầm thứ 3, nơi ước tính còn hàng trăm xác người nằm lại”. Ông ĐÀO ĐỨC CƯƠNG, Trưởng khu Dây Thép, thị trấn Đồng Đăng Chủ đề Ngày thơ Việt Nam 2025 thu hút sự quan tâm của dư luận. Nhiều ý kiến đánh giá, trong tâm thế “Kỷ nguyên vươn mình” của đất nước thì Tổ Quốc bay lên là chủ đề hay. Nhưng cũng không ít người lại thấy, chủ đề tuy hay nhưng câu thơ gợi cảm hứng cho chủ đề ấy lại quá cũ: Dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ/Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân. của dân tộc Nhà thơ Mỹ Bruce Weigl (trái) nguyên là Chủ tịch Chương trình Viết văn quốc gia Mỹ, Chủ tịch Hội đồng Thẩm định thơ của Giải thưởng Văn học quốc gia Mỹ làm khách mời tại Ngày thơ Việt Nam 2025 ẢNH: VIỆT KHÔI

RkJQdWJsaXNoZXIy MjM5MTU3OQ==