những chế tài đủ mạnh để xử lý vi phạm, thì việc công khai, minh bạch chỉ dừng lại trên giấy tờ mà khó đi vào thực tế. Nhiều người nghĩ rằng, đã là tiền công đức thì không nên soi xét, để tâm về khoản tiền đó đi về đâu, được sử dụng với mục đích ra sao. Vậy, theo ông cần giải pháp như thế nào để khoản tiền công đức ở các cơ sở tín ngưỡng tôn giáo vừa đảm bảo tính công khai, minh bạch song cũng tạo điều kiện cho người dân, người quản lý các cơ sở ấy tin tưởng và tự nguyện công khai tiền công đức? Quan niệm “đã là tiền công đức thì không nên soi xét” xuất phát từ lòng tin và sự tôn trọng đối với các cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, khi nguồn tiền công đức không chỉ mang ý nghĩa tâm linh mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc bảo tồn, phát huy giá trị di tích, lễ hội, thì tính công khai, minh bạch là điều cần thiết. Để đạt được sự cân bằng giữa minh bạch tài chính và sự tự nguyện trong công khai, trước hết cần có cơ chế quản lý linh hoạt, phù hợp với đặc thù của từng loại hình di tích, cơ sở tín ngưỡng. Không thể áp dụng một mô hình cứng nhắc cho tất cả, mà cần có sự điều chỉnh sao cho vừa đảm bảo tính minh bạch, vừa tôn trọng quyền tự quyết của các cơ sở tín ngưỡng theo quy định pháp luật. Ứng dụng công nghệ sẽ là một giải pháp quan trọng. Việc triển khai các hình thức đóng góp bằng chuyển khoản, mã QR, hay xây dựng hệ thống báo cáo tài chính điện tử không chỉ giúp minh bạch hóa dòng tiền mà còn giảm thiểu những lo ngại về thất thoát, sử dụng sai mục đích. Việc tuyên truyền, nâng cao nhận thức cũng rất quan trọng. Nếu chỉ đặt ra quy định mà không giải thích rõ ràng tại sao cần công khai, minh bạch, thì rất dễ tạo ra tâm lý phản kháng hoặc không hợp tác từ phía người quản lý cơ sở tín ngưỡng. Tôi cho rằng, cần có những mô hình quản lý tiêu biểu để làm gương. Khi một số cơ sở tín ngưỡng thực hiện tốt việc công khai, minh bạch tài chính mà vẫn đảm bảo được hoạt động tín ngưỡng thuận lợi, thậm chí còn thu hút được nhiều sự đóng góp hơn, những nơi khác sẽ nhìn vào đó và dần thay đổi cách làm. Chỉ khi nào minh bạch tài chính trở thành một điều hiển nhiên và được xã hội thừa nhận là cần thiết, mới có thể thực sự tạo ra sự chuyển biến bền vững trong quản lý tiền công đức. Cảm ơn ông! NGUYÊN KHÁNH 11 n Thứ Năm n Ngày 6/2/2025 THỜI SỰ Nguyên tắc đầu tiên trong quản lý tiền công đức là phải tách bạch giữa việc tu bổ, bảo tồn di tích với các hoạt động mang tính thương mại, cá nhân. “Công đức là sự đóng góp tự nguyện của nhân dân để duy trì không gian văn hóa, tâm linh, nhưng có những trường hợp nguồn tiền này lại bị sử dụng thiếu minh bạch. Một số nơi tự ý lập quỹ riêng, không báo cáo tài chính rõ ràng, hoặc phân bổ tiền công đức vào các mục đích không liên quan đến bảo tồn di tích và hoạt động tín ngưỡng”, ông Khoa nêu. Thực tế, đã có nhiều tranh luận về việc tiền công đức nên được quản lý bởi nhà chùa, BQL di tích hay cơ quan nhà nước. Theo ông Khoa, điều quan trọng không nằm ở việc ai giữ tiền, mà ở cách sử dụng có đúng mục đích, có công khai, minh bạch hay không. “Một cơ chế giám sát chặt chẽ, có sự tham gia của nhiều bên như nhà chùa, chính quyền địa phương và cả đại diện cộng đồng Phật tử là cần thiết. Cần có báo cáo công khai hằng năm về số tiền công đức thu được và các hạng mục chi tiêu cụ thể để tránh thất thoát hoặc lạm dụng”. Việc lắp đặt hòm công đức tràn lan, đặt tiền lên tượng Phật, bàn thờ là biểu hiện của việc hiểu sai về công đức. Chuyên gia Nguyễn Khoa cho rằng, đã đến lúc cần có hướng dẫn cụ thể về cách thức công đức sao cho văn minh. Nhiều nước trên thế giới, thay vì dùng tiền mặt, họ có quỹ bảo tồn di tích, quỹ từ thiện do nhà chùa hoặc BQL điều hành với sự giám sát nghiêm ngặt. Ông cũng đề xuất một số giải pháp như ứng dụng công nghệ trong quản lý tiền công đức. Nhiều nước đã triển khai công đức qua mã QR, vừa tiện lợi, vừa hạn chế được tình trạng tiền mặt bị thất thoát. Quan trọng hơn, việc số hóa giúp công khai các khoản thu - chi, tránh tình trạng quản lý tùy tiện. “Công đức là một nét đẹp trong văn hóa tín ngưỡng, nhưng nếu không được quản lý chặt chẽ, nó có thể biến tướng thành một ngành kinh doanh tâm linh. Minh bạch, đúng mục đích và có sự giám sát, đó là ba nguyên tắc quan trọng để tiền công đức thực sự phát huy giá trị trong đời sống văn hóa, tôn giáo của người dân”, ông Khoa khẳng định. HẠ ĐAN Theo Báo cáo của Bộ Tài chính về kết quả kiểm tra tổng thể việc quản lý tiền công đức, tài trợ tại các di tích lịch sử-văn hóa trên phạm vi toàn quốc được công bố giữa tháng 6/2024, trong năm 2023, cả nước thu 4.100 tỷ đồng tiền công đức. Việc Bộ Tài chính lần đầu tiên thực hiện kiểm tra tổng thể về quản lý tiền công đức, tài trợ tại các di tích lịch sử - văn hóa trên phạm vi toàn quốc, đã giúp cho các địa phương có cơ sở thực tiễn để đánh giá toàn diện về hoạt động này. Căn cứ từ báo cáo của địa phương, trong tổng số 31.581 di tích thành phần, có 15.324 di tích (49%) có số liệu thu, chi tiền công đức, tài trợ. Trong đó: Di tích là cơ sở tôn giáo: Tổng số 5.683 di tích, trong đó có 3.912 di tích (69%) có số liệu thu, chi tiền công đức, tài trợ, số di tích còn lại không báo cáo. Các di tích khác: Tổng số 25.898 di tích, trong đó có 11.412 di tích (44%) có số liệu thu, chi. Số còn lại chủ yếu là di tích tư nhân, nhà thờ dòng họ không báo cáo và các di tích đặc thù không có công đức, tài trợ gồm: di tích là địa điểm ghi dấu sự kiện, mốc lịch sử, phố cổ, nhà cổ, văn chỉ, địa điểm khảo cổ, hang động. Số liệu của Bộ Tài chính cũng cho thấy, số thu tại các di tích là cơ sở tín ngưỡng 3.062 tỷ đồng (chiếm 75%). Có 63 di tích thu trên 5 tỷ đồng, trong đó có 28 di tích thu trên 10 tỷ đồng. Có 7 di tích có số thu cao nhất (trên 25 tỷ đồng), gồm: Miếu Bà Chúa Xứ ở Châu Đốc, An Giang 220 tỷ đồng; Đền Bảo Hà ở Bảo Yên, Lào Cai 71 tỷ đồng; Khu di tích lịch sử Nhà tù Côn Đảo ở Bà Rịa-Vũng Tàu 34 tỷ đồng; Đền Sòng Sơn ở Bỉm Sơn, Thanh Hóa 28 tỷ đồng; Đền Hùng ở Phú Thọ 26 tỷ đồng và 02 di tích sau ở Hà Nội: Đình La Khê ở Hà Đông 28 tỷ đồng và Đền trình Ngũ Nhạc (chùa Hương) ở Mỹ Đức 33 tỷ đồng. Số thu tại các di tích là cơ sở tôn giáo 1.038 tỷ đồng (chiếm 25%). Có 15 di tích thu trên 5 tỷ đồng, trong đó chỉ có 4 di tích có số thu trên 10 tỷ đồng gồm: Chùa Tranh ở huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương 10,2 tỷ đồng; Chùa Tàm Xá ở Đông Anh, Hà Nội hơn 10 tỷ đồng; Chùa Ông ở Biên Hòa, Đồng Nai 14,2 tỷ đồng và Ban Đại diện Phật giáo Hòa Hảo tỉnh Cà Mau 14,4 tỷ đồng. Có 7 tỉnh, thành phố có số thu trên 200 tỷ đồng, gồm: Hà Nội 672 tỷ đồng, Hải Dương 278 tỷ đồng, An Giang 277 tỷ đồng, Bắc Ninh 269 tỷ đồng, Hưng Yên 242 tỷ đồng, Nam Định 215 tỷ đồng. Tỉnh Quảng Ninh được giao thực hiện thí điểm việc kiểm tra, số thu 4 tháng đầu năm 2023 trên 67 tỷ đồng (đã bổ sung số thu tại chùa Ba Vàng và một số di tích), ước thu cả năm trên 200 tỷ đồng. Có 9 tỉnh, thành phố có số thu trên 100 tỷ đồng đến dưới 200 tỷ đồng, gồm: Hải Phòng 183 tỷ đồng, Thái Bình 169 tỷ đồng, Vĩnh Phúc 127 tỷ đồng, Bắc Giang 122 tỷ đồng, Phú Thọ 119 tỷ đồng, Lào Cai 116 tỷ đồng, Nghệ An 115 tỷ đồng, Ninh Bình 110 tỷ đồng, Thanh Hóa 105 tỷ đồng. THỤC QUYÊN - QUỲNH NGA Nhà nghiên cứu văn hóa Nguyễn Khoa nhận định, tiền công đức là một nguồn lực quan trọng trong các hoạt động tín ngưỡng, nhưng nếu không được quản lý minh bạch, công khai thì rất dễ bị trục lợi, đi chệch mục đích ban đầu. Ba nguyên tắc quản lý tiền công đức Nhiều địa phương đạt số thu tiền công đức khủng chỉ đặt ở 3 ban thờ chính. Tuy nhiên, theo quan sát của PV, tại nhiều chùa, số hòm công đức có thể gấp 3 - 4 lần so với quy định. NHIỀU KHÓ KHĂN TRONG KIỂM KÊ TIỀN CÔNG ĐỨC Trao đổi với PV Tiền Phong, lãnh đạo Vụ Tài chính hành chính sự nghiệp (Bộ Tài chính) cho biết, năm 2025 chưa có kế hoạch báo cáo kiểm tra tổng thể trên cả nước về quản lý tiền công đức. Hiện nay, báo cáo của địa phương về việc quản lý tiền công đức hiện vẫn chỉ mang tính tham khảo, khó kiểm tra được tính minh bạch. Theo tìm hiểu của PV Tiền Phong, Bộ Tài chính đã nhận được một số kiến nghị về kiểm kê, quản lý tiền công đức. Ví dụ như tỉnh Hải Dương kiến nghị những vấn đề liên quan khu di tích đồng thời là cơ sở tôn giáo. Theo đó, Thông tư 04 không cho phép sự tham gia của các đơn vị sự nghiệp công lập (ở đây là các BQL di tích, danh thắng) tiếp nhận, quản lý và sử dụng tiền công đức, mà trao toàn bộ quyền này cho người đại diện cơ sở tôn giáo tự quyết định (theo khoản 4 Điều 13). Do đó, các BQL không có cách nào để nắm chính xác số tiền công đức thu được. Thành phố Hồ Chí Minh (TPHCM) cũng gửi kiến nghị Bộ Tài chính cần sớm ban hành biểu mẫu về ghi chép, theo dõi tiền công đức… Một trong những vấn đề được BQL khu di tích ở các địa phương quan tâm là việc sử dụng tiền công đức. Ông Trần Minh Đức, Trưởng BQL Di tích Quốc gia đền Chợ Củi cho biết, đang chờ UBND tỉnh Hà Tĩnh ban hành quyết định về tỷ lệ phần trăm (%) cụ thể trong việc trích tiền công đức, tài trợ cho công tác tu bổ, phục hồi di tích, chi cho hoạt động lễ hội, hoạt động thường xuyên (trả lương cho đội ngũ làm việc tại di tích…) và các hoạt động đặc thù theo quy định tại khoản 2 Điều 13 của Thông tư 04. Đại diện BQL Di tích và rừng quốc gia Yên Tử cho biết, tỉ lệ phân bổ số tiền công đức theo công thức: Nhà chùa quản lý và sử dụng 96%; 4% còn lại thuộc về BQL di tích và rừng quốc gia Yên Tử. Theo quy định tại khoản 4 Điều 13 của Thông tư 04, hàng năm, nhà chùa chỉ có trách nhiệm trích một tỷ lệ % nhất định từ số tiền công đức cho BQL nhằm chi trả chi phí sửa chữa, bảo dưỡng di tích, đảm bảo an ninh trật tự…. “UBND tỉnh Quảng Ninh đang giao cho Sở Tài chính của tỉnh chủ trì, phối hợp cùng một số đơn vị khác để triển khai việc thực hiện Thông tư 04. Đến thời điểm này, UBND và Sở Tài chính của tỉnh vẫn chưa ban hành văn bản chỉ đạo nào. Theo những gì tôi biết, việc triển khai thực hiện Thông tư 04 chưa được đồng nhất trên toàn bộ tỉnh Quảng Ninh. Có nơi đã thực hiện, nhưng có nơi vẫn chưa”, đại diện BQL Di tích và rừng quốc gia Yên Tử nói. Theo vị này, Sở Tài chính đang đẩy mạnh việc lấy ý kiến đóng góp, kiến nghị của các ban, ngành và khu di tích trên địa bàn tỉnh về việc thực hiện Thông tư 04 để có thể ban hành chỉ đạo trong thời gian sớm nhất. Trước các kiến nghị này, trong thời gian tới, Bộ Tài chính dự kiến sẽ tổ chức các đoàn khảo sát để thu thập thêm những ý kiến đóng góp của các địa phương. VIỆT KHÔI Người dân bỏ tiền công đức vào hòm khi đi lễ tại chùa Phúc Khánh (quận Đống Đa, TP Hà Nội)
RkJQdWJsaXNoZXIy MjM5MTU3OQ==