Năm tôi lên sáu tuổi, bố mẹ tôi theo đơn vị đi công tác xa, tôi ở lại Hà Nội với ông bà ngoại. Ngôi nhà của ông bà ở ngõ Phất Lộc, tôi còn nhớ, là một ngôi nhà gạch to xây kiểu biệt thự Pháp. Bước qua bậc thềm gỗ, căn nhà sâu hút, chia làm hai lớp ngăn cách bởi một khoảng sân trời, một bể nước nửa chìm nửa nổi quanh năm ẩm ướt. Ngôi nhà ít ánh nắng nên quanh năm có mùi âm ẩm bốc lên, đến nỗi tôi cứ nghĩ đó là mùi riêng của căn nhà. Ông ngoại tôi làm đốc-tờ từ thời Pháp, lương đủ nuôi cả nhà. Bà ngoại ở nhà mở cửa hàng bán rượu, loại rượu nếp cái hoa vàng, cùng vài thúng gạo nếp, gạo tám thơm..., vừa để đỡ buồn, vừa để trông coi các dì, các cậu tôi. Nhà tuy đông người nhưng rất nền nếp, quy củ. Ai cũng đi khẽ cười nhẹ, ai cũng nói lời dạ thưa. Mẹ tôi là con gái lớn trong nhà, quen bố tôi là thiếu sinh quân Hà Nội – con trai một người bạn cũ của ông ngoại. Vì hai gia đình biết rõ nhau, ông bà ngoại đồng ý gả mẹ tôi sớm. Khi tôi sinh ra, các dì các cậu trong nhà còn đi học. Đứa cháu đầu tiên, cả hai bên gia đình tranh nhau bế bồng, chăm bẵm. Chỉ bởi vì bên dưới mẹ tôi còn mấy dì đều chưa lập gia đình, nên năm ấy cuối cùng nhà ngoại đón được đứa cháu trai là tôi tới ở. Nghe mọi người kể lại, hồi ấy tôi là một cậu bé ít nói, hay ngồi ngẩn ngơ như mơ mộng điều gì. Trong các dì thì dì Kiều là người yêu tôi nhất. Tên thật của dì là Phương, nhưng dì rất đẹp. Đẹp đến nỗi có lần một anh chàng họa sĩ bạn của cậu tôi đến chơi đã bật thốt lên: “Thúy Kiều tái thế!” Và thế là mọi người hay gọi trêu dì là Kiều, tôi cũng bắt chước gọi dì là dì Kiều. Năm đó, dì Kiều mười chín tuổi. Khuôn mặt trái xoan trắng muốt, hai lúm đồng xu nho nhỏ nơi khóe miệng như hoa nở, một mái tóc dài đen bóng như sa tanh. Tôi nhớ dì hay mặc áo lụa màu mỡ gà vào mùa hè, mặc áo chần bông màu xanh hồ thủy vào mùa đông. Trong phòng khách hơi tôi tối, bên những bức hoành phi câu đối sơn son, dì cắm hoa, đan len hay khâu vá. Dường như luôn lặng lẽ. Thỉnh thoảng, khi có việc bận phải ra phố, bà tôi gọi dì ra gian ngoài ngồi trông hàng. Những lúc ấy, hình như đông khách hơn lệ thường. Các chàng trai đến mua rượu, chưa kịp mở nút đã say chuếnh choáng. Họ say nhan sắc, say tiếng "vâng, dạ" nhỏ nhẹ, say đôi mắt nhìn xuống với rèm mi hình quạt nho nhỏ... Tôi ngồi bên cạnh, dì bày mấy con thú gỗ ra làm đồ chơi. Nhưng thường là tôi không chơi gì mấy, tôi ngồi đó, nhìn những khách hàng ngượng ngùng đi đến rồi lại lúng túng rời đi. Tôi cười một mình. Trong số những người theo đuổi dì, tôi nhớ nhất chú Ân. Chú người thấp nhỏ, diện mạo không có gì đặc biệt nếu không muốn nói là khó coi, nhà cũng ở trong ngõ. Chú học rất giỏi và cũng rất tài hoa, bà tôi bảo vậy. Những lúc bà tôi ở nhà, chú Ân hay gọi tôi sang nhà chơi, cho tôi kẹo và bảo tôi mang những mảnh giấy màu xanh da trời gấp tư về cho dì. Dì đọc xong rồi cất đi, không bao giờ trả lời. Hiếm hoi những khi dì bán hàng, thì chú Ân sang mua rượu. Chú đứng ở bậc tam cấp, trò chuyện nhỏ nhẹ. Những câu chuyện bâng quơ về mùi hương trầm vọng ra từ đình Phất Lộc, về ông già ngồi kéo đàn bên bờ hồ, về cây liễu đã bắt đầu thả những chùm hoa đơn tính... Dì thường cúi đầu nghe, tay vẫn thoăn thoắt đảo gạo, nhặt thóc. Chỉ thỉnh thoảng mới trả lời những tiếng "vâng" rất nhỏ. Tôi ngồi bên dì, nghe chú Ân nói chuyện. Lạ lùng thay, tôi không cười một mình. Tôi chỉ thấy trong mắt chú lóng lánh những đốm sáng, như ánh đèn dầu trên ban thờ trong đình Phất Lộc những ngày bày mâm lễ... Hôm ấy, hình như là mùa thu, gió heo may bắt đầu se se ve vuốt trên làn da. Tôi sang nhà chú Ân chơi, nhưng chê phòng khách nhà chú lạnh, đòi lên gác. Ở đó, tôi thấy những chai rượu chú đã mua ở nhà tôi được xếp thành hàng trong tủ kính nơi góc phòng. Mười mấy chai còn đầy nguyên. Chú chưa từng mở cái nút lá chuối khô để ngửi hương rượu thơm nồng. Đêm về, rúc mình trong chăn mỏng, tôi kể với dì. Từ đó, dì thôi không nhận việc bán hàng thay bà. Dì Lan tôi ra bán hàng thay. Nhưng chú Ân cũng không thấy sang mua rượu nữa. Những ngày tháng ấy trôi thật chậm, thời gian như rất dài, yên tĩnh mà tốt đẹp. Khoảng thời gian tôi thích nhất là 8 - 9 giờ tối, khi cả nhà đã đi ngủ. Tôi và dì Kiều ngồi ở ban công gác hai. Cả con ngõ đã chìm trong bóng tối. Xung quanh không có ánh đèn, những ngôi nhà cổ kính in từng vệt thẫm nhấp nhô lên nền trời sương khói. Tiếng rao đêm khe khẽ xa xa, không làm run rẩy nổi những cụm dương xỉ trên mái ngói. Dì Kiều ngồi chống cằm, ánh trăng chiếu vào mặt dì làm khuôn mặt càng trắng muốt. Một đôi mắt hững hờ nhìn về phía màn đêm, có chút gì đó như thong dong mà cũng như tư lự, vui buồn bất chợt. Ông ngoại thường hay nói riêng với bà ngoại, chuyện nhà này hay nhà kia có con trai lớn… Đêm nào cũng thế, khi hai mắt tôi bắt đầu ríu lại, thì từ gác hai trước mặt, tiếng đàn violon của chú Ân bắt đầu vang lên réo rắt. Bài “Dư âm” mượt mà, êm ái, khẽ chảy tan vào màn đêm. Dì Kiều nghiêng người, chỉ để lại một bóng lưng, hàng mi cong vút rung nhẹ. “Dư âm tiếng hát gieo lên trong lòng anh bao nhớ nhung. Đê mê lòng nhớ đêm qua giấc mơ môi em hé rung. Anh muốn thành mây, nương nhờ làn gió. Đưa em tới cõi mơ hồ nào đây. Muôn kiếp bên nàng...”. Tôi tỉnh ngủ hoàn toàn. Ngồi lặng im như nín thở cho đến khi những nốt nhạc cuối cùng biến mất hẳn. Và lần nào cũng thế, dứt tiếng đàn là tiếng thì thầm rất nhỏ: Còn trời, còn nước, còn non Còn cô bán rượu anh còn say sưa... Mỗi lần nghe đến câu đó, dì Kiều lại như tỉnh khỏi cơn mộng. Dì lẳng lặng dắt tôi vào nhà, bảo tôi lên giường ngủ. Dì ôm tôi trong lòng, ru tôi: “Ngày xưa có anh Trương Chi...” Cứ thế, tôi chìm vào giấc ngủ tuổi thơ đầy những giọt âm thanh buồn buồn nhưng trong vắt... Hai năm sau, khi tôi lên tám tuổi, dì đi lấy chồng. Chồng dì hơn dì mười tuổi, đi học ở Pháp về, cũng là con nhà người quen. Đêm hôm trước ngày vu quy, dì lại cùng tôi ra ban công ngồi hóng mát. Cây dạ lan hương nhà ai thơm thoang thoảng. Đình Phất Lộc đêm ấy lại có đèn chong, hương trầm thơm vấn vít. Vẫn là tiếng rao đêm nhòa trong sương giá. Mảnh trăng lưỡi liềm xanh xao chiếu vào mắt dì long lanh nước. Tôi và dì chờ mãi giai điệu “Dư âm” quen thuộc. Cho đến khi dì thở dài, dắt tay tôi đi vào thì tiếng đàn lại khe khẽ ngân lên. “Nhưng một sớm mùa thu, khép giữa trời tím ngắt, nàng đi gót hài xanh. Nàng đi cho dạ sao đành, đường quen lối cũ ân tình… Nghĩa xưa!”. Tôi thấy hình như dì khóc. Đó là lần duy nhất mà chú Ân không đánh đàn bài “Dư âm”, và cũng là lần duy nhất dì không hề nhấp miệng hát theo. Dì theo chồng được vài tháng thì chú Ân cũng rời khỏi nhà. Nghe nói, chú vào miền Nam. Năm sau, bố mẹ tôi về lại Hà Nội. Bà tôi thôi không bán rượu nữa, có lẽ vì ít khách mua. Tôi theo bố mẹ rời khỏi ngõ Phất Lộc. Và từ đó, không một lần nào tôi được gặp lại cái cảm giác nín thở ngày xưa, khi tôi khoác chiếc khăn len ngồi dưới chân dì, nghe tiếng đàn “Dư âm” réo rắt, nỉ non tan trong ánh trăng xanh. Thời gian như nước chảy trôi. Năm 19 tuổi, một buổi tối mùa thu tôi mang theo đàn violon đến thăm dì Kiều, muốn đàn một khúc cho dì nghe. Tôi thấy dì ôm con gái dì vào lòng, một cô bé xinh xắn như búp bê. Dì hát khe khẽ: “Ngày xưa...” Câu hát của ngõ Phất Lộc đêm trăng khuyết, của Hà Nội thuở chưa có đèn hoa, của một thời con gái... đã xa. n SÁNG TÁC 13 ...”THUỞ ẤY LÀM SAO THẬT THÁI BÌNH TRAI HIỀN BẠN VỚI GÁI ĐỒNG TRINH…” HỮU LỘC Dư 18-19/10/2025 www.tienphong.vn MINH HỌA: KIM DUẨN âm
RkJQdWJsaXNoZXIy MjM5MTU3OQ==