Báo Tiền Phong số 268/2025

15 nThứ Năm n Ngày 25/9/2025 Từ 23-25/9, Cơ quan Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Đối thoại Khu vực Âu - Á - Thái Bình Dương, trọng tâm là đổi mới tài chính cho đa dạng sinh học, quy tụ hơn 120 chuyên gia về tài chính đa dạng sinh học và đại diện chính phủ từ nhiều quốc gia. Theo Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Nguyễn Quốc Trị, Việt Nam luôn coi phát triển bền vững gắn với bảo tồn thiên nhiên là ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển quốc gia. Nhờ vậy, những năm qua, Việt Nam đạt được nhiều kết quả như tỷ lệ che phủ rừng được duy trì ổn định ở mức 42%, nhiều hệ sinh thái quan trọng được phục hồi, diện tích các khu bảo tồn liên tục được mở rộng, trong đó có 9 khu Ramsar và 11 khu dự trữ sinh quyển được UNESCO công nhận, 15 Vườn di sản ASEAN và nhiều khu vực được công nhận có tầm quan trọng quốc tế khác. Việt Nam cũng từng bước nghiên cứu, triển khai các công cụ tài chính mới như tín chỉ carbon, tín chỉ đa dạng sinh học, bảo hiểm rủi ro thiên nhiên, xây dựng các quỹ bảo tồn… Tuy nhiên, lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Môi trường cũng thẳng thắn nhìn nhận, nguồn lực cho bảo tồn vẫn còn thiếu hụt nhiều so với nhu cầu thực tế. Áp lực từ quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đô thị hóa nhanh chóng, biến đổi khí hậu và thiên tai ngày càng khốc liệt cũng đặt ra nhiều thách thức trong việc huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực. “Trong giai đoạn tới, Việt Nam sẽ tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách và khung pháp lý để huy động nguồn lực cho thiên nhiên, đặc biệt nghiên cứu, thúc đẩy chi trả các dịch vụ hệ sinh thái khác như hệ sinh thái đất ngập nước, hệ sinh thái biển, thúc đẩy lồng ghép mục tiêu bảo tồn thiên nhiên vào Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, mở rộng hợp tác công - tư, hợp tác quốc tế và khu vực, tăng cường sự tham gia của cộng đồng, doanh nghiệp trong bảo tồn đa dạng sinh học”, lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Môi trường nêu. CẦN ĐA DẠNG HOÁ CÁC NGUỒN LỰC Theo bà Ramla Khalidi, Trưởng đại diện thường trú UNDP ở Việt Nam, thế giới đang phải đối mặt với khoảng trống tài chính cho đa dạng sinh học hơn 700 tỷ USD mỗi năm. Nếu tiếp tục cách làm cũ sẽ không thể lấp đầy khoảng trống này. Bà Ramla Khalidi cho rằng, việc triển khai Sáng kiến Tài chính Đa dạng sinh học (BIOFIN) có thể mở lối cho việc lấp đầy khoảng trống đó. Sáng kiến này đã huy động được hơn 1,6 tỷ USD cho thiên nhiên tại 41 quốc gia. Tại Việt Nam, BIOFIN đang góp phần thay đổi cách thức bảo tồn biển - từ mô hình do Nhà nước dẫn dắt sang đồng quản lý gồm cả cộng đồng, hợp tác xã và khu vực tư nhân, có thể kể đến một số điển hình như tại Hòn Yến, một phần doanh thu từ du lịch cộng đồng đã được đưa trực tiếp vào bảo vệ rạn san hô hay tại Bình Thuận, các nhóm ngư dân địa phương đã có vai trò chính thức trong quản lý nguồn lợi của họ. NGUYỄN HOÀI Phát hành trái phiếu xanh, bảo hiểm dựa vào thiên nhiên hay tín chỉ đa dạng sinh học là các giải pháp được chuyên gia quốc tế đề xuất tại Đối thoại Khu vực Âu - Á - Thái Bình Dương đang diễn ra ở Việt Nam, nhằm huy động nguồn tài chính cho hoạt động bảo tồn đa dạng sinh học trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Tìm kiếm nguồn lực cho bảo tồn đa dạng sinh học 7 giờ sáng, chị lên tàu ở cầu cảng Rạch Vẹm (đặc khu Phú Quốc, tỉnh An Giang), lênh đênh trên biển 15 phút thì đến khu nuôi trai. Dọc theo những đường phao, tàu dừng ở đâu, những người đứng trên boong tàu cúi xuống, hai tay nhịp nhàng kéo những sợi dây thừng, gỡ những cặp lồng ken đầy trai môi vàng đã được nuôi 5 năm chất dần lên khắp lượt boong tàu. 8 giờ sáng, tàu về đến khu chế biến. Hàng chục người lại tất bật, hoặc thoăn thoắt mổ trai, hoặc đổ chậu ruột trai vào máy cùng với nước vôi xay tan nhuyễn thể để lọc lấy những viên ngọc, hoặc kiểm tra chất lượng, đo kích thước, phân loại ngọc trai… Đến 16 giờ 30 phút, kết thúc một ngày bận rộn với rất nhiều “ô, a”, chị Đinh Lan Anh ngồi thư thái ngắm biển xanh cát trắng, nhâm nhi những món ăn chế biến từ thịt trai và các loại hải sản tươi ngon của Phú Quốc. Sáng hôm sau, chị hãnh diện đeo chuỗi vòng cổ, đôi hoa tai, chiếc mặt nhẫn chế tác bằng ngọc trai do chính mình tận tay thu hoạch, lựa chọn. “Đây là lần đầu tiên tôi được trải nghiệm trực tiếp thu hoạch ngọc trai. Từ xưa đến giờ tôi chỉ nghĩ ngọc trai được thu hoạch từng viên, ai ngờ một ngày được tận mắt thấy thu hoạch hàng trăm kilogram ngọc trai một ngày”, chị kể. Ông Hoàng Văn Thanh, quản lý trang trại ngọc trai (Công ty TNHH MTV Ngọc trai Ngọc Hiền), giải thích, biển Rạch Vẹm nước mặn, sạch, ấm, ít gió, thức ăn dồi dào nên rất thích hợp để nuôi trai lấy ngọc; nuôi trai không cần cho ăn vì chúng tự ăn tảo để sinh sống và làm sạch nước biển. Nhưng trai rất dễ bị tổn thương nên một tuần phải vệ sinh lồng trai một lần để giúp chúng sạch sẽ, dễ kiếm ăn, phòng bệnh, khỏe mạnh, nhanh lớn. Trai môi vàng (Pinctada maxima) là loài trai ngọc quý hiếm, là loài trai lớn nhất trong họ trai biển Pterridae, vỏ dài có thể đến 30 cm, gần như hình tròn, dẹp hai bên. Khi nuôi cấy ngọc đã tạo ra những viên ngọc tròn, kích cỡ lớn trên 1cm, có thể lên đến 2cm nếu thời gian nuôi cấy đạt đủ 6-7 năm; ngọc màu vàng kim hoặc ánh bạc, có giá trị kinh tế rất cao. Nhưng tỉ lệ trai sống chỉ khoảng 60-70%. “Công ty Ngọc trai Ngọc Hiền đã mất tới 10 năm mới nghiên cứu thành công việc cấy nhân vào nội tạng trai. Và hiện nay, ở Việt Nam chỉ có Ngọc Hiền nhân giống thành công giống trai này để nuôi cấy ngọc”, ông Thanh nói. Theo PGS.TS Nguyễn Chính, Viện nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản III, ở Việt Nam, trai môi vàng phân bố nhiều nơi, nhất là ven các đảo từ Đà Nẵng đến Phú Quốc, nơi có độ sâu từ 15-30m, trong đó, các vùng biển thuộc huyện Hàm Tân (tỉnh Lâm Đồng), phía tây và nam đảo Phú Quốc (tỉnh An Giang) là những nơi có nguồn trai mẹ lớn nhất. Ngư dân thường khai thác vỏ trai để cung cấp cho các cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, dẫn đến nguồn trai có kích thước lớn, có khả năng sinh sản ngày càng cạn kiệt. Chiến lược phát triển nuôi trồng thủy sản trên biển đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 11/3/2021 nêu rõ: Phát triển mạnh nuôi công nghiệp tập trung bốn loài trai ngọc có giá trị kinh tế cao (Pinctada martensii, Pinctada margaritifera, Pinctada maxima và Pteria penguin) trong các vùng ven biển ít sóng gió. Đồng thời phát triển công nghiệp chế tác và thương mại ngọc trai. Mục tiêu năm 2030 thu hoạch 200 tấn ngọc (kích thước 7-10 mm), doanh thu thô 3-5 tỷ USD, chế biến thành thương phẩm có thể đạt 8 tỷ USD. “Viên ngọc càng tròn càng quý, càng dày càng bóng. Viên lớn nhất là chúng tôi thu hoạch được cách đây hơn 10 năm, có đường kính 21mm, bán sang Nhật Bản với giá 1,2 tỷ đồng. Những viên ngọc đặc biệt như thế xuất hiện cũng rất độc đáo: Có lứa chúng tôi nuôi một triệu con trai mà không được một viên, nhưng có khi chỉ trong 100 con đã được vài ba viên”, ông Hồ Phi Thủy, Giám đốc Công ty TNHH MTV Ngọc trai Ngọc Hiền, cho biết. Năm 2011, một viên ngọc melo 10mm tròn, màu vàng cam đậm rất hiếm từ vùng biển Phan Thiết được người Nhật mua với giá 65.000 USD. Từ năm 2007, Việt Nam sản xuất ngọc trai đẹp hơn ngọc trai Nhật Bản và Trung Quốc, nhờ nước biển ấm hơn và ít ô nhiễm hơn. Trai, hàu có khả năng lọc tới 190 lít nước mỗi ngày. Theo nghiên cứu từ Đại học Maryland (Mỹ), các trang trại ngọc trai lớn có thể cải thiện đáng kể chất lượng nước trong khu vực, giúp giảm thiểu hiện tượng phú dưỡng và làm trong nước biển. Các trang trại còn tạo ra môi trường sống thuận lợi cho nhiều loài sinh vật biển khác như cá nhỏ, cua, tảo biển…, hoạt động như một rạn san hô nhân tạo, giúp gia tăng đa dạng sinh học ở khu vực ven biển. TUẤN HOÀNG Nuôi trai lấy ngọc và vấn đề môi trường Thu hoạch ngọc trai ở Phú Quốc; độ quý giá của ngọc trai được phân theo hình dạng, màu sắc, độ dày (ảnh nhỏ) ẢNH: TUẤN HOÀNG Chị Đinh Lan Anh, du khách đến từ Hà Nội, vừa trải nghiệm một ngày thu hoạch ngọc trai Phú Quốc, hiểu thêm nhiều vấn đề về kinh tế và môi trường. Loài cầy vằn quý hiếm được phát hiện tại Vườn Quốc gia Vũ Quang (tỉnh Hà Tĩnh) thông qua hoạt động bảo tồn Tại Đối thoại, các chuyên gia cũng đề xuất nhiều công cụ tài chính mới như trái phiếu xanh, bảo hiểm dựa vào thiên nhiên, tín chỉ đa dạng sinh học... Đây là các mô hình có thể được nhân rộng để đạt mục tiêu đa dạng sinh học quốc gia trong khi vẫn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế toàn diện. Quá trình nuôi ngọc trai có lượng khí thải carbon thấp, không đòi hỏi nhiều năng lượng, thiết bị cơ giới hay chuỗi vận chuyển dài. Nhờ đó, ngọc trai nuôi không chỉ là một lựa chọn thân thiện với môi trường mà còn giúp các sản phẩm như trang sức hay mỹ phẩm từ ngọc trai trở nên hợp lý hơn về giá cả và đạo đức hơn trong tiêu dùng.

RkJQdWJsaXNoZXIy MjM5MTU3OQ==