CHUYỆN HÔM NAY Trong bối cảnh kinh tế đang cần dòng vốn công làm “mồi lửa” kích hoạt đầu tư tư nhân, thúc đẩy tăng trưởng, sự chậm trễ này là tín hiệu đáng lo. Điều dễ nhận thấy nhất là sự chênh lệch rất lớn giữa các bộ ngành, địa phương. Vẫn còn tới 29 bộ ngành và 12 địa phương giải ngân thấp hơn mức trung bình. Nhiều dự án gần như “đứng hình” – ở Quảng Trị, có tới 11 dự án chưa giải ngân đồng nào. Hải Phòng, dù thuộc nhóm khá, vẫn phải liên tục nhắc nhở, thậm chí “bêu tên” các chủ đầu tư chậm tiến độ. Câu chuyện không mới, nhưng lặp lại năm này qua năm khác cho thấy khâu chỉ đạo, giám sát và thực thi vẫn còn lỏng lẻo. Nguyên nhân chậm trễ thì nhiều, nhưng nổi bật là ba điểm nghẽn: Thủ tục rườm rà, vướng mắc trong giải phóng mặt bằng, và biến động giá vật liệu. Nhà thầu e ngại rủi ro, thi công cầm chừng; cơ quan quản lý thiếu quyết liệt; một số chủ đầu tư năng lực yếu. Những tồn tại ấy cộng dồn, khiến nhiều công trình “nằm trên giấy”, trong khi nhu cầu hạ tầng, y tế, giáo dục của người dân lại ngày một bức thiết. Một điểm sáng hiếm hoi là việc Bộ Tài chính cùng Ban Chỉ đạo 751 đã xây dựng hệ thống dữ liệu để rà soát gần 3.000 dự án vướng mắc trên cả nước. Việc phân loại thành nhóm vấn đề, phân cấp thẩm quyền xử lý, hay cử các tổ công tác đi trực tiếp kiểm tra là bước đi đúng, bởi chỉ khi nhìn thẳng vào điểm nghẽn cụ thể thì mới có thể tháo gỡ. Nhưng dữ liệu chỉ là bước đầu; quan trọng hơn là quyết tâm chính trị và trách nhiệm của từng cấp, từng ngành. Thực tế cho thấy, nơi nào lãnh đạo quyết liệt, thường xuyên kiểm tra, sát sao đến từng dự án, nơi đó giải ngân tốt hơn. Ở chiều ngược lại, tư duy “an toàn cho mình”, sợ trách nhiệm, ngại va chạm khiến nhiều cán bộ chọn cách trì hoãn. Đầu tư công trở thành phép thử không chỉ của năng lực quản lý mà còn của tinh thần dám làm, dám chịu trách nhiệm. Năm 2025 là năm bản lề của kế hoạch 5 năm, vốn đầu tư công không chỉ để xây dựng vài con đường, cây cầu, mà còn là động lực kéo nền kinh tế qua những khó khăn hậu dịch, trong bối cảnh thế giới biến động. Nếu để dòng vốn lớn ấy “nằm im”, cơ hội tăng trưởng sẽ trôi qua, gánh nặng nợ công và lãng phí nguồn lực lại chồng chất. Điều đất nước cần lúc này không phải những báo cáo dày dặn lý do, mà là hành động quyết liệt, thậm chí “xốc vác” để dự án được khởi công, được hoàn thành đúng hạn. Cần cơ chế thưởng – phạt rõ ràng: Ai làm tốt phải được ghi nhận, ai chây ì phải bị xử lý, không thể để tình trạng “cào bằng trách nhiệm”. Đầu tư công vốn là “cỗ máy kéo” nền kinh tế. Nhưng cỗ máy ấy chỉ chạy trơn tru khi mỗi bánh răng – từ bộ ngành đến địa phương, từ lãnh đạo đến chủ đầu tư – cùng vận hành với tinh thần trách nhiệm cao nhất. Nếu không, chúng ta sẽ lại chứng kiến cảnh vốn có mà công trình vẫn ì ạch, còn người dân thì tiếp tục chờ đợi trong mỏi mòn. N.T Cú hích đầu tư công TIẾP THEO TRANG 1 3 n Thứ Tư n Ngày 10/9/2025 THỜI SỰ Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Trần Cẩm Tú vừa thay mặt Bộ Chính trị, Ban Bí thư ký ban hành Kết luận số 187-KL/ TW về định hướng số lượng cấp phó của cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị. KẾT LUẬN NÊU MỘT SỐ NGUYÊN TẮC ĐỊNH HƯỚNG SỐ LƯỢNG CẤP PHÓ CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC: Số lượng cấp phó tối đa không quá 50% tổng số biên chế được giao của cơ quan tổ chức (không áp dụng đối với cơ quan MTTQ cấp xã). Số lượng cấp phó trong 1 tổ chức trực thuộc tối đa không vượt quá số lượng cấp phó của tổ chức cấp trên trực tiếp. Các cơ quan, tổ chức cùng cấp thì số lượng cấp phó của cơ quan, tổ chức không có tổ chức bên trong tối đa không vượt quá số lượng cấp phó của cơ quan, tổ chức có tổ chức bên trong. Cơ quan, tổ chức nào có nhiều đầu mối trực thuộc hơn thì số lượng cấp phó tối đa có thể nhiều hơn. ĐỐI VỚI CÁC CƠ QUAN, TỔ CHỨC Ở TRUNG ƯƠNG, ĐỊA PHƯƠNG KHÔNG THỰC HIỆN HỢP NHẤT, SÁP NHẬP: Số lượng thứ trưởng và tương đương, phó chủ tịch HĐND, UBND cấp tỉnh, cấp xã…; số lượng cấp phó đầu mối bên trong cơ quan, tổ chức ở Trung ương, địa phương cơ bản thực hiện theo các quy định hiện hành. Đối với cơ quan, tổ chức ở Trung ương, địa phương chưa có quy định số lượng cấp phó tối đa, thì ở trung ương, số lượng thứ trưởng và tương đương tối đa không vượt quá 5 người; cấp phó các ban, cơ quan của Đảng ở Trung ương thực hiện theo quy định của Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Số lượng phó vụ trưởng và tương đương tối đa không vượt quá 3 người. Số lượng phó trưởng phòng và tương đương tối đa thực hiện theo quy định về số lượng cấp phó của phòng và tương đương thuộc bộ, ngành. Trường hợp đặc biệt sẽ do cấp có thẩm quyền quyết định. Ở địa phương, sẽ thực hiện theo quy định về số lượng cấp phó của chức danh, chức vụ tương đương thuộc sở, ngành cấp tỉnh, phòng cấp xã. ĐỐI VỚI CÁC CƠ QUAN, TỔ CHỨC Ở TRUNG ƯƠNG, ĐỊA PHƯƠNG THỰC HIỆN HỢP NHẤT, SÁP NHẬP: Với các ban, bộ, ngành Trung ương thành lập mới trên cơ sở hợp nhất, sáp nhập nhiều cơ quan, tổ chức cùng cấp, thì, với những nơi chưa có quy định số lượng cấp phó tối đa, kết luận nêu: ban, bộ, ngành được hợp nhất, sáp nhập từ 2 cơ quan thì số lượng thứ trưởng và tương đương tối đa không vượt quá 6 người. Ban, bộ, ngành được hợp nhất, sáp nhập từ 3 cơ quan thì số lượng thứ trưởng và tương đương tối đa không vượt quá 7 người. Ở những nơi đã có quy định số lượng cấp phó tối đa, thì đối với ban, bộ, ngành được hợp nhất, sáp nhập từ 2 cơ quan, số lượng thứ trưởng và tương đương tối đa không vượt quá 1 người so với quy định hiện hành. Ban, bộ, ngành được hợp nhất, sáp nhập từ 3 cơ quan thì số lượng thứ trưởng và tương đương tối đa không vượt quá 2 người so với quy định hiện hành và bảo đảm số lượng thứ trưởng và tương đương của ban, bộ, ngành không vượt quá 7 người. Đối với cấp vụ, cục, nếu được hợp nhất, sáp nhập từ 2 cơ quan thì số lượng cấp phó tối đa không vượt quá 1 người so với quy định hiện hành. Hợp nhất, sáp nhập từ 3 cơ quan thì số lượng cấp phó tối đa không vượt quá 2 người so với quy định hiện hành và bảo đảm không vượt quá số lượng cấp phó của cấp trên trực tiếp. VỀ SỐ LƯỢNG PHÓ CHỦ TỊCH HĐND, PHÓ CHỦ TỊCH UBND TỈNH, THÀNH PHỐ: Đối với thành phố trực thuộc Trung ương có thực hiện sáp nhập, nếu thành lập trên cơ sở hợp nhất, sáp nhập 2 đơn vị hành chính cấp tỉnh thì số lượng phó chủ tịch HĐND thành phố tối đa không vượt quá 1 người; số lượng phó chủ tịch UBND thành phố tối đa không vượt quá 2 người so với quy định hiện hành của tỉnh, thành phố sáp nhập có phân loại đơn vị hành chính cao nhất hoặc theo phân loại đơn vị hành chính, phân loại đô thị của thành phố sau sắp xếp. Trường hợp thành phố được thành lập trên cơ sở hợp nhất, sáp nhập 3 đơn vị hành chính cấp tỉnh thì số lượng phó chủ tịch HĐND thành phố tối đa không vượt quá 2 người; số lượng phó chủ tịch UBND thành phố tối đa không vượt quá 3 người so với quy định hiện hành của tỉnh, thành phố sáp nhập có phân loại đơn vị hành chính cao nhất hoặc theo phân loại đơn vị hành chính, phân loại đô thị của thành phố sau sắp xếp. Đối với các tỉnh, nếu thành lập trên cơ sở hợp nhất, sáp nhập 2 tỉnh, thì số lượng phó chủ tịch HĐND tỉnh tối đa không vượt quá 1 người; phó chủ tịch UBND tỉnh tối đa không vượt quá 2 người so với quy định hiện hành của tỉnh sáp nhập có phân loại đơn vị hành chính cao nhất hoặc theo phân loại đơn vị hành chính của tỉnh sau sắp xếp. Nếu tỉnh được thành lập trên cơ sở hợp nhất, sáp nhập 3 tỉnh, thì số lượng phó chủ tịch HĐND tỉnh tối đa không vượt quá 1 người; số lượng phó chủ tịch UBND tỉnh tối đa không vượt quá 3 người so với quy định hiện hành của tỉnh sáp nhập có phân loại đơn vị hành chính cao nhất hoặc theo phân loại đơn vị hành chính của tỉnh sau sắp xếp. Đối với ban, sở, ngành của tỉnh, thành phố, nếu hợp nhất, sáp nhập từ 2 tỉnh, thành phố thì số lượng phó giám đốc sở, phó trưởng phòng và tương đương tối đa không vượt quá 1 người/1 cơ quan. Trường hợp ban, sở, ngành mới hợp nhất, sáp nhập thì số lượng tối đa không vượt quá 2 người/1 cơ quan so với quy định hiện hành. Những định hướng nêu trên được áp dụng đối với các cơ quan chuyên trách tham mưu, giúp việc, đơn vị sự nghiệp của cấp ủy các cấp; cơ quan Trung ương MTTQ Việt Nam, cơ quan MTTQ cấp tỉnh; Ủy ban MTTQ Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp xã. Định hướng này cũng áp dụng với các cơ quan của Quốc hội; các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; Văn phòng Chủ tịch nước... TRƯỜNG PHONG Theo kết luận của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, với ban, bộ, ngành được hợp nhất, sáp nhập từ 3 cơ quan thì số lượng thứ trưởng và tương đương tối đa không vượt quá 2 người so với quy định hiện hành và bảo đảm số lượng thứ trưởng và tương đương của ban, bộ, ngành không vượt quá 7 người. Sau sáp nhập, số thứ trưởng và tương đương không vượt quá 7 người Thường trực Ban Bí thư Trần Cẩm Tú ẢNH: TTXVN Với TPHCM, số lượng phó chủ tịch HĐND tối đa không vượt quá 2 người; số lượng phó chủ tịch UBND tối đa không vượt quá 3 người so với quy định hiện hành của thành phố. Đối với các xã, phường, đặc khu, kết luận nêu, có 2 phó bí thư (1 phó bí thư thường trực, 1 phó bí thư, chủ tịch UBND). Bình quân mỗi xã, phường, đặc khu có 1 phó chủ tịch HĐND; 2,5 phó chủ tịch UBND; 2 cấp phó/1 ban, phòng và tương đương.
RkJQdWJsaXNoZXIy MjM5MTU3OQ==