GS James Borton cho rằng, khắp Đông Nam Á, các nhà lãnh đạo đang đối mặt với nhiều thách thức chồng chéo của biến đổi khí hậu, suy giảm đa dạng sinh học và phát triển bền vững. Tuy nhiên, ngay cả khi ý thức bảo vệ môi trường gia tăng, một yếu tố sống còn lại bị bỏ quên: nguồn cá trên sông Mekong. Theo báo cáo “Những loài cá bị lãng quên của Mekong” của Tổ chức quốc tế về bảo tồn thiên nhiên (WWF) công bố năm 2024, lưu vực sông Mekong hiện đóng góp khoảng 15% sản lượng cá nước ngọt toàn cầu, tương đương hơn 2,3 triệu tấn mỗi năm. Thế nhưng quần thể cá tại đây đang suy giảm nghiêm trọng và chưa có dấu hiệu phục hồi. Giá trị ngành thủy sản Mekong được ước tính trên 11 tỷ USD (tính từ năm 2015), song nguồn tài nguyên quý giá này chưa bao giờ được đánh giá đúng mức trong hoạch định chính sách. WWF cảnh báo ngành thủy sản Mekong đang ở “ngã rẽ nguy hiểm”, tiệm cận bờ vực sụp đổ không thể đảo ngược. Nguồn cá Mekong không chỉ là tài sản sinh học mà còn là trụ cột của đời sống cộng đồng. Ở Campuchia, cá chiếm tới 60% lượng protein động vật trong khẩu phần ăn hằng ngày. Ở Lào và nhiều vùng của Việt Nam, đặc biệt tại Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), nghề cá quy mô nhỏ là sinh kế chính của hàng triệu hộ gia đình, trong đó có nhiều phụ nữ và cộng đồng dễ bị tổn thương. Nguồn cá này còn đóng vai trò như “lưới an toàn xã hội” trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế hoặc mất mùa. Thế nhưng, hơn 1.100 loài cá, bao gồm nhiều loài đặc hữu, đang đối diện nguy cơ biến mất do tác động cộng hưởng: xây dựng thủy điện, khai thác cát, đánh bắt quá mức, ô nhiễm nguồn nước, chia cắt sinh cảnh và biến đổi khí hậu. HỆ SINH THÁI SÔNG CHỜ SỤP Báo cáo của WWF chỉ rõ, nghề cá Mekong đang ở trong tình trạng khủng hoảng và mối đe dọa này “không còn là viễn cảnh” mà đang diễn ra ngay trước mắt. Những loài cá từng phong phú, như cá tra dầu khổng lồ Mekong, loài biểu tượng văn hóa và sinh thái, nay đã ở mức cực kỳ nguy cấp. Toàn bộ mạng lưới sinh thái thủy sinh bị xáo trộn, kéo theo tác động dây chuyền lên kinh tế địa phương và dinh dưỡng cộng đồng. Việc xây dựng các đập, đặc biệt ở thượng nguồn Lan Thương (Trung Quốc), đã làm thay đổi chế độ dòng chảy tự nhiên, chặn đường di cư của cá và phá hủy bãi đẻ. Hồ Tonle Sap (Campuchia), vốn được ví như “trái tim đang đập của Mekong”, cũng chứng kiến những biến đổi lớn trong mùa lũ do sự điều chỉnh thủy văn từ thượng nguồn, đe dọa sự tồn tại của các loài cá phụ thuộc vào vùng ngập lũ để sinh sản và kiếm ăn. Trong khi đó, phản ứng chính trị khu vực vẫn rời rạc và chậm chạp, theo GS James Borton. Ủy hội Sông Mekong (MRC), cơ chế hợp tác giữa Campuchia, Lào, Thái Lan và Việt Nam, tuy có vai trò quan trọng nhưng lại thiếu quyền lực ràng buộc. Các khuyến nghị khoa học nhiều khi bị phớt lờ khi xung đột với lợi ích quốc gia. Không ít quốc gia vẫn coi thủy điện là trụ cột phát triển, bất chấp những cảnh báo về chi phí sinh thái và xã hội nặng nề. Nếu đà suy giảm tiếp diễn, không chỉ hệ sinh thái sông Mekong đứng trước nguy cơ sụp đổ mà cả một cuộc khủng hoảng nhân đạo có thể bùng phát. Nghèo đói, suy dinh dưỡng, di cư lao động, đặc biệt từ ĐBSCL, có nguy cơ gia tăng mạnh mẽ, GS James Borton nhận định. Tại tọa đàm quốc tế “Phát triển bền vững Tiểu vùng sông Mekong trong thế kỷ XXI” (diễn ra tại Hà Nam hồi tháng 6/2025), TS Đào Ngọc Báu, Viện trưởng Viện Chính trị và Quan hệ quốc tế - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, nhấn mạnh: “Việt Nam, quốc gia cuối nguồn, đang phải đối diện trực diện với những tác động rõ rệt từ biến đổi dòng chảy. ĐBSCL, trung tâm nông nghiệp, thủy sản lớn nhất nước, đang có nguy cơ suy giảm sản xuất và biến đổi toàn diện cơ cấu sinh kế”. CẦN COI NGHỀ CÁ NỘI ĐỊA NHƯ HẠ TẦNG THIẾT YẾU WWF kêu gọi các chính phủ, nhà tài trợ và ngân hàng phát triển coi nghề cá nội địa như hạ tầng thiết yếu, quan trọng không kém đường sá hay nhà máy điện. Các giải pháp chính bao gồm: Tạm dừng xây dựng đập tại các khu vực sinh thái trọng yếu nhằm bảo tồn đường di cư và bãi đẻ; Tăng cường hợp tác quản lý nghề cá ở cấp khu vực, chia sẻ dữ liệu và xây dựng cơ chế phối hợp hiệu quả hơn; Đầu tư phục hồi sinh cảnh và phát triển công nghệ hỗ trợ di cư cho cá, giảm thiểu tác động của hạ tầng thủy điện; Thiết lập hệ thống giám sát và cơ sở dữ liệu mạnh mẽ, từ đó có thể ứng phó kịp thời với biến động nguồn lợi; Công nhận quyền lợi và tri thức bản địa trong quản lý thủy sản, tạo điều kiện để cộng đồng ven sông tham gia giám sát, bảo vệ nguồn cá. Với Việt Nam, giải pháp không chỉ nằm ở cấp độ quốc tế mà còn phải gắn với phát triển nội tại, GS James Borton nêu quan điểm. ĐBSCL, nơi chiếm hơn 70% sản lượng thủy sản cả nước, đang chứng minh khả năng thích ứng mạnh mẽ. Nhiều mô hình nuôi trồng mới đang mở ra cơ hội lớn. Đó là: Ứng dụng công nghệ sinh học và chế phẩm vi sinh để cải thiện chất lượng nước và sức khỏe thủy sản; Áp dụng nuôi thâm canh tích hợp công nghệ cao, năng lượng tái tạo, mô hình dựa vào thiên nhiên; Đầu tư vào chế biến tuần hoàn, tận dụng phụ phẩm, truy xuất nguồn gốc minh bạch, xây dựng thương hiệu quốc gia cho thủy sản Việt Nam… THÁI AN Trao đổi với phóng viên Tiền Phong ngày 4/9, GS James Borton, Đại học Johns Hopkins (Mỹ), nhận định: “Sông Mekong, mạch sống nuôi dưỡng hàng chục triệu cư dân Đông Nam Á, đang đứng trước một trong những khủng hoảng sinh thái lớn nhất lịch sử; nguồn cá từng dồi dào nay suy giảm nghiêm trọng, đe dọa trực tiếp đến an ninh lương thực, sinh kế và văn hóa của các cộng đồng ven sông, đặc biệt là tại Việt Nam - quốc gia cuối nguồn”. Mùa nước nổi về sớm (giữa tháng 8/2025), người dân đầu nguồn ĐBSCL đánh bắt tôm, cá… ẢNH: VOV “Cơ hội vẫn còn nhưng thời gian không đứng về phía chúng ta. Bảo vệ nguồn cá Mekong không chỉ là nhiệm vụ sinh thái, mà còn là bảo vệ an ninh lương thực, gìn giữ sinh kế, văn hóa và hòa bình của cả khu vực”. GS JAMES BORTON, Đại học Johns Hopkins (Mỹ) Nguy cơ khủng hoảng nguồn cá sông Mekong 14 n Thứ Sáu n Ngày 5/9/2025 Bán đảo Cà Mau có hơn 310km bờ biển, nhưng có đến 204km bị sạt lở. Giai đoạn 2011-2025, sạt lở bờ biển đã làm mất khoảng 6.250ha đất và rừng phòng hộ; thiệt hại do sạt lở gây ra rất lớn. Giai đoạn 20212025, Cà Mau đã tập trung triển khai các giải pháp phục hồi rừng ngập mặn ven biển. Tổng diện tích được phục hồi ước đạt đến hết năm 2025 trên 1.819ha, gồm 1.269ha rừng trồng mới, khoanh nuôi xúc tiến tái sinh rừng tự nhiên tại Vườn Quốc gia Mũi Cà Mau trên 550ha. Phần lớn diện tích khoanh nuôi tại các khu vực có tiềm năng bồi tụ phù sa cao, góp phần thúc đẩy quá trình lấn biển tự nhiên. Rừng ngập mặn là một trong những hệ sinh thái có khả năng hấp thụ và lưu giữ carbon vượt trội, gấp nhiều lần so với rừng trên cạn. Diện tích rừng được phục hồi gồm khoanh nuôi xúc tiến tái sinh tự nhiên và trồng mới. Trong đó, khoanh nuôi xúc tiến tái sinh tự nhiên có hiệu quả cao trong hấp thụ và lưu giữ carbon, nhờ duy trì được cấu trúc hệ sinh thái bản địa và lớp đất ngập mặn giàu hữu cơ. Đây là “bể chứa carbon” tự nhiên, giúp giảm phát thải khí nhà kính hiệu quả hơn nhiều so với các biện pháp kỹ thuật đơn thuần. Song song đó, rừng được phục hồi đã tạo môi trường sống phong phú cho nhiều loài sinh vật, từ thủy sản như cua, tôm, cá, sò, ốc... đến các loài chim hoang dã, chim di cư như cò trắng, cà cuốc, bồ nông, giang sen… Để duy trì và phát huy hiệu quả của “lá chắn xanh” ven biển, Chi cục Kiểm lâm Cà Mau xác định, ưu tiên hàng đầu triển khai đồng bộ các giải pháp quản lý bền vững rừng ngập mặn. Trước hết, tăng cường tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức cộng đồng về vai trò sống còn của rừng ngập mặn trong ứng phó biến đổi khí hậu và bảo vệ sinh kế ven biển. Triển khai thực hiện hiệu quả quy hoạch lâm nghiệp, trong đó chú trọng phục hồi rừng, đặc biệt rừng ngập mặn ven biển. Chi cục Kiểm lâm đã đẩy mạnh ứng dụng công nghệ GIS, viễn thám trong giám sát, quản lý và theo dõi diễn biến rừng một cách chủ động, chính xác. Song song đó, tập trung phát huy vai trò của người dân thông qua mô hình quản lý rừng dựa vào cộng đồng, gắn quyền lợi với trách nhiệm bảo vệ rừng. TÂN LỘC Phát huy hiệu quả “lá chắn xanh” ven biển Cà Mau Giai đoạn 2021-2025, Cà Mau đã tập trung phục hồi rừng ngập mặn ven biển, với tổng diện tích được phục hồi trên 1.819ha. Đoàn viên thanh niên tham gia trồng rừng, góp phần giảm thiểu tình trạng sạt lở Tại hội thảo quốc tế “Phát triển bền vững Tiểu vùng sông Mekong” (được tổ chức ở TPHCM hồi 6/2025), GS.TS Nguyễn Hồng Thao, thành viên Ủy ban Pháp luật quốc tế Liên Hợp Quốc, nhận định: “Nguyên tắc sử dụng công bằng và không gây hại cho các quốc gia khác phải trở thành chuẩn mực pháp lý trong quản lý nguồn nước Mekong”. Việt Nam cần chủ động hơn nữa trong việc thúc đẩy một khung pháp lý chặt chẽ và cơ chế giải quyết tranh chấp hiệu quả, ông nói.
RkJQdWJsaXNoZXIy MjM5MTU3OQ==