Tiền Phong số 23

CẦN CHIẾN LƯỢC PHÁT HUY SỨC MẠNH TOÀN DÂN Để đạt được mục tiêu tăng trưởng hai con số giai đoạn 2026-2030, việc khai thác tối đa tiềm năng của từng cá nhân và cộng đồng là yếu tố cốt lõi. Hai hướng chính cần tập trung gồm thúc đẩy tinh thần sáng tạo, khởi nghiệp và nâng cao nhận thức, trách nhiệm xã hội. Theo đó, cần chiến lược cụ thể để thúc đẩy tinh thần sáng tạo và khởi nghiệp với chiến lược đã được đề ra: cần phát huy nội lực cá nhân và cộng đồng. Đặc biệt, cần tập trung đưa ra các cơ chế, chính sách thúc đẩy sáng tạo và khởi nghiệp. Cụ thể, cần tăng quỹ đầu tư khởi nghiệp từ 5.000 tỷ (năm 2025) lên 10.000 tỷ đồng (năm 2030), miễn giảm thuế 30%- 50% trong 3 năm đầu cho doanh nghiệp mới. Song song với đó là phát triển 50 vườn ươm doanh nghiệp toàn quốc, phổ cập giáo dục các môn khoa học, công nghệ, toán và kỹ thuật (STEM), khuyến khích tham gia các cuộc thi sáng tạo. Mục tiêu đạt được 10.000 doanh nghiệp khởi nghiệp vào 2030, tỷ lệ thành công tăng từ 10% lên 30% cũng là những đầu việc cần tập trung thực hiện trong giai đoạn tới. Việc tăng cường giáo dục và đào tạo để thích ứng kỷ nguyên số cũng là nhiệm vụ quan trọng trong phát triển kinh tế đất nước. Theo đó, Việt Nam cần tập trung đào tạo nhân lực trong công nghệ thông tin, AI, tự động hóa và năng lượng tái tạo và phát triển ngành nghề kỹ thuật cao. Việc đẩy mạnh giáo dục số và đào tạo kỹ thuật cao sẽ là nền tảng để Việt Nam thích ứng chuyển đổi số toàn cầu, song cần đẩy mạnh chất lượng đào tạo đáp ứng nhu cầu dài hạn. Tăng cường hợp tác công - tư tại Việt Nam cũng là một trong những đầu việc quan trọng trong thúc đẩy tăng trưởng. Hiện tại tính đến năm 2025, Việt Nam có hơn 360 dự án PPP với tổng vốn 1,5 triệu tỷ đồng, tập trung vào hạ tầng, giao thông, năng lượng, môi trường. Dự án tiêu biểu như cao tốc Bắc - Nam chiếm 70% tổng vốn đầu tư. Tuy nhiên, khung pháp lý chưa hoàn thiện và thiếu minh bạch trong chọn nhà đầu tư cũng là vấn đề cần cân nhắc giải quyết. Chính phủ và các bộ ngành cần định hướng phát triển huy động nguồn lực doanh nghiệp nội địa trong thời gian tới. Cùng đó, sửa đổi Luật PPP (đầu tư theo hình thức đối tác công tư), thành lập cơ quan quản lý độc lập, áp dụng blockchain minh bạch hóa đấu thầu… sẽ là việc cần tập trung giải quyết. Theo tính toán, khi thực hiện tốt, đầu tư PPP sẽ tăng 1520%/năm, đạt 20-25% GDP vào năm 2030 giúp tiết kiệm ngân sách Nhà nước hơn 2 triệu tỷ đồng và tạo 2 triệu việc làm mới, nâng cấp chất lượng sống và giảm phát thải carbon. PGS.TS NGÔ TRÍ LONG, chuyên gia kinh tế KINH TẾ 5 n Thứ Năm n Ngày 23/1/2025 Trao đổi với PV Tiền Phong, PGS. TS Nguyễn Thường Lạng, Giảng viên cao cấp Viện Thương mại và Kinh tế quốc tế (Trường Kinh doanh, ĐH Kinh tế Quốc dân) cho rằng, số liệu vừa được Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ KH&ĐT) công bố cho thấy, trong cả năm 2024, vốn thực hiện của các dự án đầu tư nước ngoài (FDI) ước đạt khoảng 25,35 tỷ USD, tăng 9,4% so với năm trước đó, đánh dấu mức giải ngân cao nhất từ trước đến nay. Đây là mức giải ngân cao với Việt Nam nhưng so với các nước khác không phải là lớn (con số này ở Trung Quốc khoảng 150 tỷ USD, Mỹ khoảng 200 tỷ USD). Việc vốn FDI vào mỗi quốc gia phụ thuộc vào sự hấp thụ của nền kinh tế nước đó, nên không thể đưa ra mong muốn thu hút vốn FDI của Việt Nam ngang bằng với các cường quốc trên thế giới. Nhưng đây là một điểm sáng. Trong dòng vốn FDI vào Việt Nam năm qua, có 80% là sản xuất chế tạo. Sản xuất chế tạo là lĩnh vực sử dụng nhiều lao động giá rẻ của Việt Nam. Đây là lợi thế của Việt Nam khi sử dụng lao động giá rẻ để hấp thụ vốn đầu tư nước ngoài. Nhà đầu tư nước ngoài cũng nhìn vào đây để sản xuất với sản phẩm rẻ nhất, quy mô lớn nhất, bán ra thế giới với giá cao nhất và đạt lợi nhuận cao nhất. Đây là lý do vì sao vốn đầu tư FDI lại đầu tư vào sản xuất chế tạo chiếm tỉ lệ lớn như vậy. Cơ chế chính sách, miễn thuế khá nhiều đang là sức hút mạnh nhất với các nhà đầu tư khi quyết định rót vốn vào Việt Nam. Có địa phương miễn giảm tổng thời gian lên tới 15 năm, tức là vừa tròn chu kì một dự án. Sau đó, doanh nghiệp FDI lại chuyển sang địa phương khác và thụ hưởng chu kỳ ưu đãi 15 năm nữa. “Như vậy, nếu nhà đầu tư đi hết 63 tỉnh, thành phố của Việt Nam, họ được 1.000 năm không phải nộp thuế. Không những thế các địa phương còn cạnh tranh nhau để thu hút nhà đầu tư. Nhà đầu tư càng có lợi và đầu tư nhiều vào Việt Nam. Có thể nói, dòng vốn nhiều là đúng. Nhưng trong chuỗi giá trị đó, đóng góp của Việt Nam rất ít, đa phần nhà đầu tư đến Việt Nam là nhập linh kiện (chiếm 80% giá của sản phẩm), sản xuất chỉ chiếm 10%”, ông Lạng nói. “Như vậy đầu vào - đầu ra gần như tương đương. Vì sao lại như vậy? Vì, nhà đầu tư vào Việt Nam sử dụng lao động giản đơn với giá rẻ, không sử dụng lao động cao cấp. Việc doanh nghiệp FDI sử dụng lao động giản đơn để giúp giảm chi phí sản xuất và phía Việt Nam cũng tranh thủ điều này để giải quyết việc làm cho người lao động”. Với cách thu hút đầu tư như trên, theo vị chuyên gia, về lâu dài, những lao động này của Việt Nam không có tương lai. Trong khi các tập đoàn đa quốc gia công nghệ cao khi vào Việt Nam họ chọn lao động giản đơn để tránh tình trạng mất công nghệ lõi. Đây là lí do vì sao nhiều công ty công nghệ cao vào Việt Nam đến giờ sau hàng chục năm các doanh nghiệp Việt vẫn không làm chủ được công nghệ lõi. “Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đến nay là 40 năm nhưng Việt Nam không có tiến bộ nhiều trong việc phát triển công nghệ, không học được gì. Cho đến nay chỉ Hàn Quốc cho Việt Nam công nghệ sản xuất màn hình Led. Ngoài ra không có gì. Tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu nhưng Việt Nam chưa làm chủ được công nghệ lõi. Lao động Việt Nam làm thuê với giá trị gia tăng thấp và có thể bị mất việc bất cứ lúc nào khi doanh nghiệp nước ngoài rút vốn”, ông Lạng chỉ rõ. Theo PGS. Nguyễn Thường Lạng, để đạt mục tiêu tăng trưởng 2 con số, cần có chiến lược làm chủ công nghệ lõi. Ví dụ, khi thu hút doanh nghiệp FDI cần phải yêu cầu họ kí cam kết sau thời gian bao lâu phải chuyển giao công nghệ. Có như vậy, mới chấm dứt được tình trạng công ty FDI vào Việt Nam, khi ra đi, họ mang theo việc làm, công nghệ và chỉ để lại rác. Bên cạnh đó, phải tăng cường năng lực của doanh nghiệp Việt, đặc biệt là năng lực nghiên cứu, phát triển, làm chủ công nghệ lõi. Chúng ta có chiến lược phát triển vi mạch bán dẫn. Đây là ngành không thể sử dụng lao động giản đơn, phải có công nghệ cao, chuyên gia giải mã, phòng thí nghiệm cao cấp. Đây là những giải pháp để tránh cho Việt Nam tiếp tục tụt hậu trong chuỗi cung ứng công nghệ trên thế giới. Nghị Quyết 57 vừa được đưa ra sẽ tạo được những bước đột phá. Như vậy, muốn tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu thì Việt Nam phải có giải pháp, có hệ sinh thái, cơ cấu vận hành kinh tế, văn hóa học hỏi để làm chủ công nghệ thay vì đi làm thuê là chính. NGHIÊM HUÊ PGS. TS Nguyễn Thường Lạng, Giảng viên cao cấp Viện Thương mại và Kinh tế quốc tế Chuyên gia kinh tế cho rằng, để đạt mục tiêu tăng trưởng 2 con số đề ra, trước hết Việt Nam cần giải bài toán thoát bẫy lao động giản đơn và thực hiện quyết liệt thay đổi mô hình kinh tế, đồng thời gỡ những vấn đề bất cập của thu hút đầu tư, nâng cao hàm lượng giá trị gia tăng của sản phẩm khi tham gia chuỗi cung ứng. Giải bài toán thoát bẫy lao động giản đơn CON SỐ GIAI ĐOẠN 2026-2030? “Chúng ta phải rất quan tâm làm sao tăng trưởng, phát triển phải là tăng trưởng quốc nội của chính các doanh nghiệp Việt Nam và giá trị gia tăng phải của chính Việt Nam. Muốn làm được vậy, chúng ta phải tổ chức được chuỗi sản xuất. Nếu vẫn phụ thuộc 70%-80% vào xuất khẩu nước ngoài thì làm sao mà vươn mình được!”, TS. Thịnh bày tỏ. Để hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân phát triển, theo TS Thịnh, cần hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách để hoạt động quản lý kinh tế vừa gọn nhẹ, vừa đảm bảo theo dõi chặt chẽ, đầy đủ nhằm đáp ứng được yêu cầu tăng trưởng. Bên cạnh đó, tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô để tăng trưởng trong mọi tình huống. Đặc biệt, giữ vững sự ổn định của đồng Việt Nam so với các đồng ngoại tệ khác, đặc biệt là đô la Mỹ. Theo dự báo, đô la Mỹ thời gian tới biến động rất khó lường sau khi Tổng thống Donald Trump nhậm chức, thực hiện các chính sách dự kiến tác động lên đồng đô la Mỹ theo xu hướng tăng. Vì thế, Việt Nam cần có sự điều hành chính sách tiền tệ phù hợp, thậm chí, để đồng Việt Nam tăng giá, tạo đà thuận lợi cho xuất khẩu. LƯU TRINH PGS.TS Đinh Trọng Thịnh đề xuất, cần có cơ chế chính sách để các doanh nghiệp lớn nhà nước lẫn tư nhân đều cùng lớn lên, trở thành đầu tàu, hạt nhân, quy tụ doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước sản xuất ra các sản phẩm thuần Việt, của Việt Nam, thương hiệu Việt phát triển lâu dài. Việt Nam đứng ở đâu trong chuỗi giá trị? Phát biểu chỉ đạo tại Diễn đàn quốc gia về doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam lần thứ VI diễn ra, ngày 15/1, Tổng Bí thư Tô Lâm cho biết, một trong những điểm yếu lớn là năng lực nghiên cứu và phát triển hiện vẫn còn phụ thuộc khá nhiều vào nguồn lực từ nước ngoài, hạn chế năng lực tự chủ công nghệ của Việt Nam. Bên cạnh đó, khả năng thu hút nhân tài công nghệ cao chưa đủ mạnh, dẫn đến việc thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp. Trình độ công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam nhìn chung còn thấp, chỉ tham gia ở mức rất khiêm tốn trong chuỗi cung ứng toàn cầu. “Tôi được báo cáo là Việt Nam đứng thứ 2 thế giới về xuất khẩu điện thoại di động thông minh; đứng thứ 5 thế giới về xuất khẩu linh kiện máy tính; đứng thứ 6 thế giới về xuất khẩu thiết bị máy tính; đứng thứ 7 thế giới về gia công phần mềm, đứng thứ 8 thế giới về thiết bị linh kiện điện tử. Đây là những con số có vẻ rất ấn tượng, hoành tráng, đáng tự hào nhưng thử hỏi, chúng ta đã bao giờ nhìn sâu vào bản chất những số liệu này chưa”, Tổng Bí thư nhấn mạnh. Thực tế, “Việt Nam đóng góp được bao nhiêu phần trăm trong những giá trị xuất khẩu đó hay đang ở những phân khúc thấp nhất của chuỗi giá trị, chủ yếu là gia công cho nước ngoài. Một cái áo bán ra thì thiết kế, vải, lụa, chỉ, cúc đều của người khác thì thu nhập là bao nhiêu trên những sản phẩm này, có chăng đóng góp của chúng ta chỉ là công lao động và ô nhiễm môi trường. Số liệu trên được trích dẫn từ báo cáo của lãnh đạo về thành tích của ngành mình nhưng tôi tự hỏi đây có phải là sự ngộ nhận, hoặc tự huyễn, hoặc tự ru mình hay không ”, Tổng Bí thư nói. THỤC QUYÊN (ghi) PGS. Nguyễn Thường Lạng cho rằng, cần giải bài toán kết hợp giữa trường ĐH với các trung tâm nghiên cứu phát triển. Hiện nay sự liên kết này rất yếu. Ví dụ, muốn giảng dạy về công nghệ bán dẫn nhưng không biết thực hành, thực tập ở đâu. Nhà nước đang tổ chức thành lập các trung tâm này để phục vụ việc nghiên cứu, đào tạo.

RkJQdWJsaXNoZXIy MjM5MTU3OQ==