Báo Tiền Phong số 212/2025

Sự thật về nạn đói năm 1945 (NXB Chính trị quốc gia Sự thật) được tiếp cận qua sử liệu, kết hợp với quá trình điều tra thực địa. Nhà sử học Nguyễn Quang Ân dành hơn 30 năm khảo cứu, cùng cộng sự ở nhiều tỉnh, thành ghi lại những tư liệu, lời kể của nhân chứng trải qua năm 1945 lịch sử. Cuốn sách gồm bốn phần, đem đến các lát cắt để khắc họa rõ nét hơn về dấu mốc đặc biệt này. Phần thứ nhất trình bày các tài liệu đương thời sống động của sự kiện nạn đói năm Ất Dậu, giúp người đọc hình dung toàn cảnh xã hội Việt Nam năm 1945. Mức độ khốc liệt của nạn đói diễn ra ở nhiều nơi từ Hà Nội đến Thái Bình, Nam Định, Hà Nam với cảnh người chết la liệt ven đường, trẻ con bới rác tìm thức ăn, mùi tử thi nồng nặc, người sống không có sức chôn người chết. Phần thứ hai tập hợp các tài liệu được viết sau nạn đói, bao gồm những nghiên cứu tiêu biểu của các nhà sử học tên tuổi như Trần Huy Liệu, Trần Văn Giàu và những hồi ký đậm chất tư liệu của nhà văn Tô Hoài, của sử gia địa phương Lê Xuân Quang... Phần thứ ba trở thành phần đặc biệt nhất của cuốn sách, giới thiệu kết quả điều tra thực địa của chính tác giả và các cộng sự tại 19 điểm thuộc 8 tỉnh, nơi nạn đói hoành hành dữ dội nhất. Nhóm khảo cứu thực hiện hàng trăm cuộc phỏng vấn nhân chứng lịch sử, cung cấp một nguồn dữ liệu định lượng quý hiếm, dựng lại tương đối chính xác mức độ tổn thất, hậu quả và phản ứng của cộng đồng trước cơn đói. Phần cuối là các hoạt động điều tra, nghiên cứu, hợp tác quốc tế và truyền thông về nạn đói năm 1945 của các nhà sử học, nhà báo Việt Nam và Nhật Bản. Không chỉ dừng lại ở việc liệt kê tư liệu hay tái dựng một bi kịch lịch sử, cuốn sách còn thể hiện rõ thông điệp nhân văn sâu sắc: Lịch sử không phải để oán trách quá khứ mà để hiểu rõ nguyên nhân, bài học và trách nhiệm với hiện tại và tương lai. Nạn đói năm 1945 là hệ quả của chiến tranh, của chế độ thống trị tàn bạo, của thiên tai và sự vô cảm của kẻ có quyền. Nhưng cũng chính trong cơn đói ấy, tình người đã sáng lên, lòng yêu nước được hun đúc, góp phần trực tiếp vào sự thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. BẢO HÂN 9 n Thứ Năm n Ngày 31/7/2025 VĂN HÓA - GIẢI TRÍ hô được theo dõi, ghi chép định kỳ cẩn thận tốc độ tăng trưởng. Vì vậy, hành trình hồi sinh san hô của những cán bộ đảm trách công việc này kéo dài năm này qua năm khác. “Công việc này ngoài thể lực, kỹ thuật phải có sự đam mê. Chính tình yêu và niềm tự hào của thế hệ thứ 3 sinh ra ở đảo tụi em như tiếp thêm động lực, làm tốt công việc, cũng là cách hữu hiệu nhất để gìn giữ đảo ngọc cha ông để lại”- Toàn chia sẻ. HỒI SINH SAN HÔ CÙ LAO CHÀM Trong nhóm cán bộ trực tiếp đảm trách công việc này có hai phụ nữ trẻ là Nguyễn Thị Hồng Thúy (30 tuổi) và Trần Phương Thảo (35 tuổi). Hồng Thúy là con gái xã đảo Cù Lao Chàm. Ngoài khả năng bơi, lặn do có “gen” đảo, Thúy có niềm đam mê đặc biệt với công việc gắn với phục hồi hệ sinh thái biển. Học xong Quản lý nguồn lợi thủy sản, Khoa Thủy sản - Đại học Nông lâm Huế năm 2017 cô bắt đầu làm việc tại Ban. Phương Thảo quê ở Hội An, sau khi tốt nghiệp ngành Công nghệ sinh học, Đại học Bách khoa Đà Nẵng cũng xin ra đảo. Công việc của hai nữ kỹ sư thường xuyên phải lặn dưới biển, trực tiếp tham gia trong việc là ươm cấy, chăm sóc san hô, cỏ biển, bảo vệ động thực vật, vệ sinh đáy biển cho san hô phát triển…Làm việc ở môi trường dưới đáy biển với nam giới đã vất vả nhưng hai cô gái trẻ gắn bó với đáy biển suốt gần chục năm qua khiến nhiều người nể phục. Không ít lần trải qua những pha hú hồn lặn dưới đáy biển như gặp sự cố nước trồi, nước cuộn. Dòng nước xoáy, đục ngầu như cuốn, ghì chặt cơ thể. Ở độ sâu gần chục mét, gặp sự cố nước trồi này nếu không biết cách xử lý thì rủi ro rất cao. “Gặp những sự cố như vậy thì phải bình tĩnh, thả lỏng cơ thể cho đến khi dòng nước trồi qua, nếu càng vùng vẫy càng đẩy mình vào vòng xoáy nguy hiểm”, Thảo cho biết. Thúy thừa nhận, làm công việc này ngoài thể lực và kỹ thuật cần bản lĩnh và một chút lì lợm, đặc biệt nếu không có đam mê, không yêu công việc thì cũng khó bám trụ lâu bền và làm việc hiệu quả. Điều buồn nhất là khi chứng kiến những rạn san hô bị các tác động bên ngoài gây tổn thương, bị tẩy trắng, và vẫn còn tình trạng xả rác xuống biển, hay du khách lặn biển vô tình hay cố ý bẻ rạn san hô. Vùng biển Cù Lao Chàm được công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới vào năm 2009, có tổng diện tích 23.500 ha. Tại đây có trên 1.035 loài động, thực vật sinh sống trên đảo và 1.309 loài sinh vật biển, trong đó có rất nhiều loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo tồn ở Việt Nam và trên thế giới. Theo ông Lê Vĩnh Thuận, Phó Giám đốc Ban quản lý Khu bảo tồn thiên nhiên Cù Lao Chàm, những cán bộ trực tiếp tham gia công tác phục hồi rạn san hô hầu hết là cán bộ trẻ, giàu đam mê, tâm huyết với công việc. Tất cả được đào tạo và có chứng chỉ lặn do Hiệp hội lặn biển (PADI) cấp, quá trình làm việc đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm, phối hợp làm việc rất hiệu quả. Cù Lao Chàm là một trong những nơi có sự hưởng ứng cao từ cộng đồng, với truyền thông mạnh mẽ, hiệu quả, luôn đặt lợi ích người dân lên cao nhất nên ý thức bảo vệ hệ sinh thái biển của cộng đồng dân cư nơi đây rất cao. Tuy nhiên, theo ông Thuận, thực trạng san hô, cỏ biển, hệ sinh thái vẫn bị tác động bởi nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó không loại trừ tác động của con người. “Du lịch phát triển, khách du lịch tới đông là một cơ hội lớn nhưng cũng là thách thức về rác thải, nhu cầu tiêu thụ ẩm thực dẫn đến nguy cơ khai thác quá mức nguồn thủy hải sản..., đều có thể tác động xấu đến môi trường, hệ sinh thái biển...” , ông Thuận nói. Kết quả đáng mừng sau những nỗ lực bảo vệ và trồng mới, diện tích san hô ở Cù Lao Chàm đã tăng lên cả về diện tích và độ phủ, đặc biệt ý thức của cộng đồng rất cao trong hoạt động đánh bắt. H.V Công việc của những cán bộ Khu bảo tồn thiên nhiên Cù Lao Chàm dưới đáy biển thức thẩm mỹ lâu dài và sâu sắc. Các không gian nghệ thuật tạo môi trường cởi mở để mọi người có thể tiếp xúc nghệ thuật mà không bị giới hạn vai trò chuyên môn hay độ tuổi. Điều này thúc đẩy sự bình dân hóa nghệ thuật. Khi khán giả hiểu giá trị sáng tạo, họ sẵn sàng chi trả cho tác phẩm, đăng ký workshop, mua vé sự kiện, trở thành khách hàng tiềm năng cho thị trường. HẠ ĐAN Nhà sử học Nguyễn Quang Ân tái hiện những ký ức chưa hề phai nhạt về nạn đói năm 1945 cướp đi sinh mạng của hơn 2 triệu người Việt Nam. Cuốn sách ghi lại tư liệu đồ sộ, được thu thập từ hơn 30 năm qua. Cuốn sách Sự thật về nạn đói năm 1945 cung cấp nguồn tư liệu đồ sộ về nạn đói lịch sử Công bố nhiều tư liệu về nạn đói 1945 Một lớp “thực hành nghệ thuật” ở Bảo tàng Mỹ thuật Cơ hội phát triển kinh tế nghệ thuật Theo giám tuyển Tùng Lâm, ở nhiều quốc gia, việc hướng dẫn công chúng hiểu giá trị sáng tạo được xem là chiến lược trọng tâm để phát triển kinh tế nghệ thuật. Tại Anh, các bảo tàng và trung tâm nghệ thuật tổ chức những buổi “curator’s talk” để giám tuyển trực tiếp giải thích bối cảnh, kỹ thuật và ý nghĩa của tác phẩm, từ đó tạo niềm tin cho khán giả, khiến họ sẵn sàng trả tiền mua vé trọn gói cho cả triển lãm lẫn chương trình trải nghiệm đi kèm. Ở Nhật Bản, mô hình “lưu trú sáng tác mở” cho phép công chúng tham gia vào quá trình làm việc của nghệ sĩ, thậm chí thử sáng tác dưới sự hướng dẫn chuyên môn. Cách làm này không chỉ kéo gần khoảng cách giữa nghệ thuật và đời sống mà còn biến khán giả thành khách hàng trung thành, sẵn sàng mua tác phẩm hoặc đăng ký workshop nâng cao. Tại Hàn Quốc, chính quyền áp dụng chính sách ưu đãi thuế cho các giao dịch nghệ thuật nhỏ lẻ, qua đó khuyến khích công chúng mua sắm tác phẩm như một phần sinh hoạt văn hóa. Những kinh nghiệm này cho thấy, khi công chúng được trao công cụ để “đọc” nghệ thuật, họ dễ dàng trở thành nhà đầu tư cho sáng tạo. Đây là nền tảng quan trọng giúp nghệ sĩ có nguồn thu ổn định, đồng thời mở ra cơ hội đưa tác phẩm ra thị trường quốc tế. “Thích nhất là mỗi khi lặn xuống thấy các rạn san hô đã phục hồi trở lại, cá và nhiều loài sinh vật biển khác cũng kéo tới tạo khung cảnh đẹp vô cùng, như lạc vào thủy cung vậy”. TRẦN PHƯƠNG THẢO

RkJQdWJsaXNoZXIy MjM5MTU3OQ==