5 nThứ Năm n Ngày 2/1/2025 KHÓ CÓ CƠ SỞ ĐIỀU CHỈNH Bộ Công Thương đang lấy ý kiến về dự thảo Nghị định quy định cơ chế thời gian điều chỉnh, căn cứ lập và điều chỉnh giá bán lẻ điện bình quân. Một trong những điểm mới của dự thảo lần này là đề xuất rút ngắn thời gian điều chỉnh giá điện tối thiểu từ 3 tháng/lần, xuống 2 tháng/lần. Đặc biệt, khi giá bán lẻ điện bình quân tăng từ 2% trở lên (thay vì từ 3% như hiện nay), Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) có quyền điều chỉnh tăng giá bán lẻ điện. Bộ Công Thương lý giải, hiện tại các thông số đầu vào trong tính toán giá điện có sự biến động khá lớn trong thời gian ngắn và cần phản ánh kịp thời để hạn chế sự tác động của thông số đầu vào đến mức điều chỉnh giá điện. Do đó, việc điều chỉnh kịp thời theo biến động thực tế của thông số đầu vào, bù đắp chi phí với lợi nhuận hợp lý để bảo toàn, phát triển vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Trao đổi với PV Tiền Phong, PGS, TS. Bùi Huy Phùng - chuyên gia năng lượng - cho rằng, nguyên tắc điều chỉnh giá cần gắn với cơ chế cạnh tranh cả đầu vào sản xuất điện và đầu ra là bán điện. Tuy nhiên, hiện tại, đầu vào còn nhiều yếu tố chưa đảm bảo minh bạch, như khâu truyền tải đang độc quyền; còn đầu ra bị “hành chính hóa” nên việc điều chỉnh liên tục sẽ rất khó chính xác. “Tôi ủng hộ việc điều chỉnh giá điện theo thị trường. Đơn vị tư vấn nên nghiên cứu biến động chi phí nhiên vật liệu, nhân công, vật tư xây dựng… để tính toán chi phí một cách thực tế nhất, nhưng không nên đặt ra cứng nhắc 2-3 tháng điều chỉnh một lần, bởi cơ sở nào để tính toán và điều chỉnh thế này?”, ông Phùng nói và đặt câu hỏi. Theo ông Phùng, thời gian qua, ngành điện đã thay đổi thời gian điều chỉnh từ 6 tháng xuống 3 tháng, nhưng chưa thấy đánh giá về tính hiệu quả nay lại thay đổi với tần suất dày hơn. Điều này sẽ ảnh hưởng lớn đến các doanh nghiệp do chi phí sản xuất sẽ liên tục thay đổi, đặc biệt là ngành tiêu thụ nhiều điện năng, chưa kể người dân sẽ cảm thấy ngành điện chỉ “nhăm nhe” tăng giá. PGS, TS. Nguyễn Minh Duệ - Chủ tịch Hội đồng khoa học, Hiệp hội Năng lượng Việt Nam - chia sẻ, việc điều chỉnh giá điện phụ thuộc vào giá thành bình quân của hệ thống, trong đó liên quan đến hàng loạt chi phí như phát điện, truyền tải, phân phối… nên rất phức tạp và đòi hỏi sự minh bạch, công bằng. Hiện tại, chi phí sản xuất điện cho từng loại điện, từng khâu vận hành ở Việt Nam còn chưa rõ nên việc điều chỉnh giá bán 2 tháng/lần là quá ngắn và không đủ cơ sở để điều chỉnh. Điều này còn chưa kể đến quy trình quản lý và giám sát việc điều chỉnh. Theo ông Duệ, nếu điều chỉnh 2 tháng/lần, hệ thống giám sát phải minh bạch trong tính giá điện bình quân để tránh trục lợi, lạm dụng chính sách. “Vậy, đơn vị nào sẽ kiểm tra và giám sát việc tính toán chi phí này? Với dữ liệu ngành điện đồ sộ như thế, doanh nghiệp vừa cung cấp thông tin để kiểm tra đợt này, lại tiếp tục cho đợt tới thì khó có thể đảm bảo”, ông Duệ cho hay. Theo nhiều chuyên gia, thay vì cứ 2-3 tháng điều chỉnh giá điện một lần, cần khẩn trương áp dụng giá điện 2 thành phần (trả cố định về công suất và theo điện năng tiêu thụ). Các nước trên thế giới đã triển khai từ lâu nhưng hiện Việt Nam vẫn loay hoay và chờ thí điểm. “Khi đã áp dụng cách tính này, không nhất thiết phải 2-3 tháng. Thà rằng người sử dụng điện trả tiền điện giá có thể cao hơn nhưng ổn định, còn hơn là thấp mà thay đổi xoành xoạch”, PGS-TS Bùi Huy Phùng nói. KHÔNG NÊN CHỈ TRÔNG CHỜ TĂNG GIÁ BÁN ĐỂ CÓ LÃI Một nội dung đáng chú ý trong dự thảo nghị định lần này là Bộ Công Thương đặt ra lợi nhuận định mức trong tính toán giá bán điện bình quân của các khâu phân phối - bán lẻ, điều hành - quản lý. Nhà máy thủy điện chiến lược đa mục tiêu và các đơn vị hạch toán phụ thuộc chưa tham gia thị trường điện cạnh tranh của EVN. Theo đó, tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu của các khâu này của các doanh nghiệp được xác định bằng mức trung bình lãi suất tiền gửi có kỳ hạn 12 tháng của 4 ngân hàng thương mại (Vietcombank, Vietinbank, BIDV và Agribank) tại ngày 30/9 của 5 năm liền kề trước đó. Bộ Công Thương lý giải việc bổ sung quy định về cơ sở xác định lợi nhuận định mức phù hợp Luật Điện lực (sửa đổi), đảm bảo lợi nhuận hợp lý để doanh nghiệp bảo toàn, phát triển vốn kinh doanh. Nói cách khác, EVN chỉ vận hành và tăng giá theo đúng lộ trình là đảm bảo có lãi. Ông Duệ cho rằng, việc EVN có lãi không chỉ phụ thuộc vào việc cứ tăng giá điện là xong, quan trọng hơn lợi nhuận còn đến từ việc kiểm soát các loại chi phí và cách điều hành, quản trị của doanh nghiệp này. Theo ông Duệ, hai năm vừa rồi EVN lỗ hàng chục nghìn tỷ đồng và nói rằng nguyên nhân đến từ việc chi phí nguyên liệu tăng, trong khi giá bán không được tăng. “Vậy EVN đã kiểm soát tốt các chi phí như phát điện, truyền tải, phân phối…hay chưa? Các nhà máy nhiệt điện đã giảm tiêu hao khí, than/kWh hoặc ứng dụng khoa học công nghệ để giảm tổn thất trong truyền tải, hay năng suất lao động đã hiệu quả, các khoản chi phí khác... minh bạch chưa?”, ông Duệ đặt câu hỏi. Vị chuyên gia cũng cho rằng nhu cầu tiêu thụ điện ngày càng lớn, việc kiểm soát chi phí sản xuất điện hiện nay là hết sức quan trọng. EVN cần nỗ lực rất lớn để giảm giá thành. “Nếu muốn có lãi nhờ trông hết vào việc tăng giá bán điện thì không ổn và không công bằng”, ông Duệ nói. DƯƠNG HƯNG Theo nhiều chuyên gia, việc giảm thời gian điều chỉnh giá điện xuống 2 tháng/lần rất khó khả thi. Thời gian này không đủ cơ sở để tính toán giá điện bình quân mà còn khiến người dân cảm thấy ngành điện chỉ “nhăm nhe” tăng giá. Ngoài việc tăng giá bán phù hợp, việc để EVN có lãi cần xuất phát từ nỗ lực giảm giá thành sản xuất điện ẢNH: EVNCPC “Nếu muốn có lãi nhờ trông hết vào việc tăng giá bán điện thì không ổn và không công bằng” PGS, TS. NGUYỄN MINH DUỆ - Chủ tịch Hội đồng khoa học, Hiệp hội Năng lượng Việt Nam Điều chỉnh giá điện 2 tháng/lần có khả thi? CHUYỆN HÔM NAY cả hệ thống chính trị đã đồng loạt vào cuộc với tinh thần “vừa chạy vừa xếp hàng” trong cách mạng tổ chức bộ máy, vừa thực hiện các nhiệm vụ điều hành phát triển kinh tế - xã hội. Với “núi” công việc bộn bề, đầy khó khăn, phức tạp và nhạy cảm, tuy nhiên bằng quyết tâm cao, nỗ lực lớn, “chỉ bàn làm, không bàn lùi”, đặt lợi ích của đất nước, lợi ích của nhân dân lên trên hết, đến nay, việc sắp xếp tinh gọn bộ máy đã hoàn thành được một khối lượng công việc khổng lồ mà nếu thực hiện theo quy trình thông thường trước đây, phải mất nhiều năm mới có thể làm được. Trong đó, nổi bật là việc Bộ Chính trị đã ban hành quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy, mối quan hệ công tác của 13 cơ quan ban Đảng, đơn vị sự nghiệp của Đảng, Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội ở Trung ương. Tổng Bí thư Tô Lâm khi chủ trì hội nghị trao quyết định cho 13 cơ quan (ngày 30/12/2024) đã khẳng định, việc 13 cơ quan đảng, đoàn thể ở Trung ương hoàn thành sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy là sự cố gắng, nỗ lực rất lớn, tinh thần gương mẫu, quyết liệt, khẩn trương, nghiêm túc trong sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của từng cơ quan và sự phối hợp chặt chẽ, trách nhiệm của các cơ quan tham mưu, giúp việc của Đảng ở Trung ương. Theo Tổng Bí thư, kết quả này, mở đầu cho việc sắp xếp tổ chức bộ máy của cả hệ thống chính trị. Trong khi đó, ở khối Chính phủ, những tuần đầu của tháng 12, Thủ tướng Phạm Minh Chính và các Phó thủ tướng liên tiếp chủ trì các cuộc họp để bàn và cho ý kiến về việc sắp xếp tinh gọn tổ chức bộ máy. Tương tự, các bộ, ngành “kín lịch” để “vừa chạy vừa xếp hàng”, vừa bàn việc hợp nhất bộ, vừa bàn tinh gọn tổ chức bên trong của đơn vị nhưng cũng không quên kế hoạch điều hành phát triển kinh tế - xã hội trong tháng cuối cùng của năm và những ngày đầu, tháng đầu của năm 2025. Đến nay, những định hướng sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của Chính phủ cơ bản đã hoàn tất. Cơ cấu tổ chức bộ máy mới của Chính phủ, dự kiến sẽ giảm từ 30 đầu mối xuống còn 21 đầu mối, gồm: 13 bộ, 4 cơ quan ngang bộ và 4 cơ quan thuộc Chính phủ. Đặc biệt hơn, trong ngày cuối cùng của năm 2024, sau nhiều tuần làm ngày, làm đêm, Chính phủ đã ban hành 3 nghị định có ý nghĩa quan trọng để vừa thực hiện hiệu quả cuộc cách mạng tinh gọn tổ chức bộ máy, vừa thu hút và giữ chân được người tài trong bộ máy: Nghị định quy định chế độ, chính sách đối với các trường hợp không tái cử, tái bổ nhiệm và cán bộ thôi việc, nghỉ hưu theo nguyện vọng; Nghị định về chính sách, chế độ đối với cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và lực lượng vũ trang trong thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị; Nghị định quy định chính sách thu hút, trọng dụng người có tài năng làm việc trong cơ quan, tổ chức, đơn vị của Đảng, Nhà nước, MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Năm 2025, Chính phủ đặt mục tiêu tăng tốc, bứt phá, phấn đấu tăng trưởng kinh tế đạt 8%, từ đó tạo nền tảng vững chắc để đạt tốc độ tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Và như Thủ tướng Phạm Minh Chính đã viết: “Đất nước trong những thời điểm lịch sử cần những quyết sách mang tính lịch sử”, để đưa đất nước thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình, vươn lên trở thành nước phát triển, cần phải có nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, giải pháp đột phá, "dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung”. V.K Quyết sách lịch sử TIP THEO TRANG 1 KINH T
RkJQdWJsaXNoZXIy MjM5MTU3OQ==