15 nThứ Sáu n Ngày 11/7/2025 XÃ HỘI Nguyễn Minh Quân, một nhà sáng tạo nội dung tại Trà Vinh chia sẻ, video về làng dệt chiếu Cầu Kè được chia sẻ rất nhiều, nhưng khi khách hỏi đường đi, nơi lưu trú lại không biết giới thiệu ai. Theo TS. Lê Anh Tuấn, chuyên gia nghiên cứu truyền thông văn hóa (Trường Đại học KHXH&NV), các địa phương cần nhìn nhận trào lưu này không chỉ là nội dung lan truyền, mà là một dạng “gợi mở tiềm năng”. “Đừng để những lời mời gọi trở thành trải nghiệm dang dở. Hãy hỗ trợ người dân bản địa tiếp cận kiến thức làm du lịch, truyền thông và đón khách với tinh thần chủ động”. Trong nhiều video lan truyền, có thể thấy rõ sức hấp dẫn ban đầu của một vùng đất được tạo nên bởi cảm xúc. Nhưng sau khi người xem bị thu hút và quyết định tìm đến, họ bước vào một thực tế khác: hạ tầng yếu, dịch vụ thiếu, trải nghiệm vụn vặt. Những bình luận kiểu như: “quê đẹp thật đấy, nhưng ở lại thì không biết làm gì” không thiếu trên mạng xã hội. Đó là ranh giới rõ ràng giữa mời khách đến nhà và tiếp khách. “Một video Tuyên Quang is calling quay cảnh làm bánh gai có thể gây tò mò, nhưng khi du khách đến và không tìm thấy nơi trải nghiệm, không có ai hướng dẫn hay tương tác, cảm giác hụt hẫng sẽ kéo theo hiệu ứng ngược. Sự lan tỏa lúc đó biến thành sự thất vọng. Chính vì vậy, nếu Local is calling thực sự trở thành một hướng đi dài hơi, nó cần được nhìn nhận như một cam kết văn hóa: cam kết về sự đón tiếp, sự duy trì bản sắc, và sự tôn trọng trải nghiệm của người đến”, TS. Lê Anh Tuấn phân tích. Ông Tuấn cho rằng, đây là thời điểm để các địa phương xem lại chính mình: “Người dân đã biết mời khách bằng video, thì chính quyền, ngành du lịch cần bắt tay hỗ trợ họ tiếp đón khách bằng thực tế. Không thể chỉ để người dân làm du lịch cảm tính”. Chuyên gia đề xuất nên khuyến khích người dân bản địa trở thành những “đại sứ du lịch tự nhiên”. Bà Hải Anh (Công ty lữ hành Flamingo Redtours) nêu quan điểm, thay vì chi hàng tỷ đồng để mời các KOL hay travel blogger nước ngoài đến chụp vài bức hình định dạng sẵn, tại sao không tận dụng nguồn lực vô giá sẵn có: hàng nghìn người Việt hiểu rõ từng con ngõ, từng món ăn, từng tập tục của quê hương mình. “Nội dung càng thật, càng chạm. Và khi người Việt tự kể về Việt Nam, câu chuyện sẽ đầy đặn hơn”, bà nói. TS. Lê Anh Tuấn đánh giá, đây chính là sự chuyển dịch đáng chú ý của truyền thông du lịch. Nếu được hỗ trợ đúng cách, những người dân bản địa hoàn toàn có thể trở thành lực lượng cốt lõi trong chiến lược quảng bá hình ảnh Việt Nam. ĐẠT NHI mắt người nước ngoài. Nhưng hiện tượng Local is calling lại là một sự đảo chiều đáng chú ý, ở đây chính người trong cuộc trở thành người kể chuyện”. Theo ông Kiên, xu hướng này không chỉ góp phần giảm sự lệch pha trong truyền thông du lịch mà còn kích hoạt lòng tự hào bản địa. “Đây là lúc du lịch Việt không chỉ vẫy gọi quốc tế, mà còn khơi dậy năng lượng nội sinh từ người dân địa phương, những người hiểu rõ văn hóa, ngôn ngữ, tập tục, có thể kể lại mọi thứ bằng ngôn ngữ gần gũi và chân thật nhất”. CHẠM ĐÚNG XU HƯỚNG CÁ NHÂN HÓA Thay vì chỉ làm du lịch kiểu “mặt tiền” bằng những bức hình lung linh hay món ăn nổi tiếng, Local is calling hướng đến cách kể sâu hơn, tập trung vào những ký ức và trải nghiệm cá nhân. Lê Minh Huy, một travel blogger 23 tuổi ở Gia Lai cho biết, anh đã thử làm một video kể về con đường đất đỏ dẫn đến rẫy cà phê nhà ngoại. “Lúc đầu tôi chỉ nghĩ quay cho vui. Nhưng sau đó nhiều người hỏi thăm: Gia Lai đẹp vậy hả? Đi thế nào, mùa nào? Tôi mới nhận ra giá trị của chính nơi mình tưởng chừng quá quen”. PGS.TS Phạm Trung Kiên đánh giá, các nội dung dạng này sở dĩ dễ lên xu hướng nhờ yếu tố bản địa hóa và cảm xúc cá nhân hóa, hai điều thế hệ Z đặc biệt yêu thích. Trên TikTok, hàng loạt video đính hashtag như #TraVinhIsCalling, #LangSonIsCalling đang ghi nhận lượng tương tác cao dù không dùng hình ảnh chuyên nghiệp. Trần Thị Lan, sinh viên năm cuối Trường Đại học Luật Hà Nội chia sẻ: “Tôi chưa từng quay video quê mình vì nghĩ ở quê chẳng có gì. Nhưng sau khi xem Hà Giang is calling do một bạn dân tộc Dao đăng, tôi quyết định về quê làm clip về làng nghề bánh đa làng Chều, Nguyên Lý, Lý Nhân, Ninh Bình. Tôi nhận ra quê mình cũng rất đặc biệt”. PGS.TS Phạm Trung Kiên cho rằng, đây chính là tiềm năng đáng chú ý của trào lưu Local is calling: “Không nhất thiết phải có đông khách mới gọi là điểm đến du lịch. Tại thời điểm người trẻ bắt đầu quay lại và kể về nơi mình sinh ra, đó chính là bắt đầu của hành trình định hình bản sắc địa phương từ góc nhìn đương đại. Đây là một hình thức làm du lịch từ gốc, bền vững hơn nhiều so với các chiến dịch truyền thông nhất thời”. HẠNH ĐỖ Theo khảo sát trên nền tảng thông tin du lịch Klook, có đến 62% du khách tại châu Á - Thái Bình Dương lựa chọn hành trình dựa vào các đề xuất từ người dùng mạng xã hội thông thường, không cần là người nổi tiếng. Thậm chí, 79% du khách đặt tua, khách sạn để được trải nghiệm ngay sau khi xem và cảm thấy hứng thú với nội dung trên TikTok, Instagram, Facebook. Tại Việt Nam, hơn 90% du khách trẻ chọn điểm đến nhờ những video lan truyền mạnh mẽ trên internet, ảnh đẹp hoặc khung cảnh có thể check-in. Khách nước ngoài thích thú với trải nghiệm “làm nông” ở Việt Nam Lấy gì giữ khách? Dù tiềm năng lớn, Local is calling cũng đặt ra nhiều câu hỏi thực tiễn. Làm thế nào để giữ chân du khách sau khi họ đến? Hạ tầng các vùng còn yếu liệu có đáp ứng được? Những người làm nội dung bản địa có được hỗ trợ, đào tạo hay kết nối với ngành du lịch chính thống? Rất nhiều người Việt Nam đều có tiềm năng trở thành “đại sứ du lịch triệu view” có một bạn trẻ đưa đi vòng quanh làng chài, giải thích về rạn san hô, quy định không túi nilon. Cảm giác nơi này không chỉ muốn mời mình đến mà còn cam kết bảo vệ để lần sau mình còn muốn quay lại. Điểm đặc biệt của Local is calling là không bán một sản phẩm cụ thể, không đặt mục tiêu thu hút số lượng khách lớn, ngược lại, nó giống như một lời rủ rê nhẹ nhàng, nhưng đủ sức nhen nhóm sự quan tâm bền vững. PGS.TS Phạm Trung Kiên nhận định: “Không gian du lịch Việt Nam bị bó hẹp lâu nay vì cách làm theo mô hình tuyến điểm cũ: tua đi đâu, ăn gì, mua gì. Nhưng video của một người dân nói về món ăn mẹ nấu hay góc phố gắn bó tuổi thơ lại có thể khiến du khách muốn tìm đến vì cảm xúc”. Ông cho rằng, đây là cơ hội tái định vị toàn bộ bản đồ du lịch quốc gia, cả về địa lý lẫn giá trị văn hóa. “Khi người dân địa phương tự kể, du lịch không còn là hành vi tiêu dùng, mà trở thành quá trình gặp gỡ giữa con người với con người”. HẠ ĐAN Tại hội nghị du lịch hôm 9/7, ông Nguyễn Văn Hùng, Bộ trưởng Bộ VHTTDL nhấn mạnh, doanh thu du lịch phải đóng góp tích cực vào bức tranh tăng trưởng, khi mục tiêu tăng trưởng của Chính phủ đặt ra là phải đạt 8% trong năm nay và hai con số trong những năm tới. Nhìn về tổng thể thì tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến động phức tạp, khó lường, sự đứt gãy trong chuỗi cung ứng là điều khó tránh khỏi. Du lịch buộc phải tìm ra những giải pháp để có sức chống chịu, thích nghi tốt và góp phần bù đắp những hạn chế do các biến động. Bộ trưởng Nguyễn Văn Hùng cho rằng, phải vẽ lại bản đồ du lịch Việt Nam, không phải phủ nhận cái đã có mà tiếp cận với tư cách ngành du lịch dựa trên bản sắc văn hóa đa dạng, đặc sắc, phù hợp với các thị trường, đối tượng khác nhau. Việc sắp xếp bộ máy hành chính mở ra không gian mới, giàu tiềm năng hơn cho các địa phương. Ngành du lịch cần thích nghi với tình hình mới, bộ máy mới để du lịch không chỉ là ngành kinh tế mũi nhọn, mà là một ngành kinh tế “truyền cảm hứng”. “Khi và chỉ khi chúng ta làm kinh tế bằng cả nhiệt huyết, bằng yếu tố văn hóa bền vững, truyền cảm hứng, chạm đến được trái tim và cảm xúc của du khách. Khách du lịch ngày hôm nay không chỉ đến để ngắm nhìn, mà họ phải được trải nghiệm, phải có cảm xúc thì mới hy vọng khách sẽ quay lại lần thứ hai và những lần sau nữa”, Bộ trưởng Nguyễn Văn Hùng nói. NGUYÊN KHÁNH BỘ TRƯỞNG BỘ VHTTDL: Du lịch phải là ngành kinh tế truyền cảm hứng Năm 2025, ngành du lịch đặt mục tiêu đón 22-23 triệu lượt khách du lịch quốc tế; phục vụ 120-130 triệu lượt khách du lịch nội địa; tổng thu từ khách du lịch đạt khoảng 980-1.050 nghìn tỷ đồng. TS. Lê Anh Tuấn đánh giá, đây chính là sự chuyển dịch đáng chú ý của truyền thông du lịch. Nếu được hỗ trợ đúng cách, những người dân bản địa hoàn toàn có thể trở thành lực lượng cốt lõi trong chiến lược quảng bá hình ảnh Việt Nam.
RkJQdWJsaXNoZXIy MjM5MTU3OQ==