10 n Thứ Ba n Ngày 10/6/2025 ĐỜI SỐNG HẦU HẾT DI SẢN DO NGƯỜI GIÀ TRÔNG GIỮ Tại nhiều địa phương ở Việt Nam, đặc biệt là các vùng nông thôn và miền núi, lực lượng trông coi di tích chủ yếu là người cao tuổi, thường là những cụ già trong ban khánh tiết hoặc trưởng thôn kiêm nhiệm. Họ không được đào tạo chuyên môn về bảo tồn, không có nghiệp vụ bảo vệ, cũng không được trang bị các thiết bị hỗ trợ giám sát. Thù lao mang tính tượng trưng, dao động từ 300.000 đến 500.000 đồng/tháng, khiến việc giữ gìn di tích mang tính tự nguyện hơn là trách nhiệm được giao. Trong khi đó, nhiều di tích nằm ở vị trí hẻo lánh, xa khu dân cư, càng khiến việc canh giữ thêm khó khăn. PGS.TS Đặng Văn Bài từng cảnh báo: “Chúng ta không thể tiếp tục để một tài sản văn hóa quốc gia được giao cho một ông từ già cả với chiếc đèn pin”. Trong nhiều năm qua, ông Đinh Văn Hòa, thủ từ đình Vằng Khắc, xã Thống Nhất, huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn đảm nhận việc trông coi di tích được xây dựng từ thời Lê Cảnh Hưng (khoảng từ năm 1740-1768) mà không có chế độ hỗ trợ nào. Tương tự, ông Hoàng Đình Khoai cũng làm Tổ trưởng Tổ thường trực đình Nông Lục, xã Hưng Vũ, huyện Bắc Sơn, Lạng Sơn kiêm “hướng dẫn viên” không lương từ hàng chục năm nay. Tình trạng này rất phổ biến tại nhiều địa phương, đặc biệt là các xã, phường. Còn nhớ, năm 2021, một vụ trộm gây rúng động dư luận tại đền Quốc Tế (xã Dị Nậu, huyện Tam Nông, Phú Thọ) đã khiến nơi này mất 40 sắc phong và sách cổ vô giá, chỉ vài ngày sau khi được phục chế. Khi chúng tôi tìm về đến nơi thì được biết lực lượng trông coi đền Quốc Tế đều là hội viên Hội Người cao tuổi của xã, người lớn tuổi nhất đã gần 90, người “trẻ” nhất cũng ngoài 70. THƯỜNG TRỰC NỖI LO DI TÍCH BỊ XÓA SỔ Thạc sĩ quản lý di tích Nguyễn Văn Tân (Viện Hàn lâm KHXH) kể về trải nghiệm đi khảo sát việc quản lý di tích gần đây: “Chúng tôi đi nhiều nơi, cảm thấy lo lắng khi cổ vật, di tích được bảo vệ rất lỏng lẻo. Ban quản lý di tích chỉ có vài người, toàn là ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng, không có trợ cấp. Công an, cảnh vệ không có, mà khuôn viên di tích lại rộng nên rất khó kiểm soát. Việc phá hoại một di tích hay ăn cắp một cổ vật do đó không có gì quá khó khăn với ngay cả người thường, chứ đừng nói trộm cắp chuyên nghiệp”. Theo hệ thống phân cấp quản lý di tích hiện nay, ngoài các di tích trọng điểm, hàng chục ngàn di tích nằm dưới sự quản lý của các xã, phường. Tuy nhiên, nhiều địa phương không có nguồn thu hoặc nguồn thu không đảm bảo, dẫn đến việc hầu như không có chế độ hỗ trợ cho người trông coi tại các di tích. Không ít người dù đã đảm nhận công tác trông giữ di tích suốt hàng chục năm nhưng họ vẫn không hề nhận được bất kỳ chế độ hỗ trợ nào. PGS.TS Đặng Văn Bài, nguyên Cục trưởng Cục Di sản văn hóa (Bộ VHTTDL), Phó Chủ tịch Hội đồng Di sản văn hóa Quốc gia nhận định: “Tính đa dạng và phức hợp trong di sản văn hóa đòi hỏi phải xác định rõ các mục tiêu và đối tượng cần được ưu tiên bảo tồn, cũng như việc xây dựng hệ thống văn bản pháp quy và cơ chế chính sách đồng bộ cho các hoạt động bảo tồn di sản văn hóa”. Được biết, thời điểm còn công tác tại Cục Di sản văn hóa (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), PGS.TS Đặng Văn Bài đã triển khai thí điểm lắp đặt hệ thống báo động gắn vào các cổ vật nhưng rất tiếc mô hình này chưa được nhân rộng. “Kể cả bây giờ chúng ta thống nhất áp dụng công nghệ này, nhưng vẫn phải tiến hành thêm nhiều giải pháp bảo vệ và tăng cường quản lý tại các di tích. Bảo vệ di tích, cổ vật là trách nhiệm của tất cả chúng ta mà ở đó người dân đóng vai trò nòng cốt. Tôi cho rằng, công việc này rất quan trọng, bởi giá trị của di tích, cổ vật vô cùng to lớn đối với lịch sử, văn hóa mỗi quốc gia”, PGS. TS Đặng Văn Bài chia sẻ. NGUỒN LỰC CHO BẢO TỒN PV Tiền Phong đặt câu hỏi cho PGS.TS Bùi Hoài Sơn, Ủy viên chuyên trách Ủy ban Văn hóa, Xã hội của Quốc hội về một trong những “nút thắt” lâu nay trong công tác bảo tồn di sản, đó là tình trạng thiếu nguồn lực. Nhiều người kỳ vọng Luật Di sản văn hóa 2024 có thể tạo hành lang pháp lý thuận lợi hơn cho việc huy động và quản lý tài chính cho di sản. PGS.TS Bùi Hoài Sơn cho biết: “Thiếu nguồn lực từ lâu đã là một điểm nghẽn lớn trong công tác bảo tồn di sản ở nước ta. Nhiều di sản quý giá xuống cấp nghiêm trọng, nhiều dự án tu bổ gián đoạn hoặc kéo dài hàng chục năm, một phần lớn cũng bởi ngân sách nhà nước cho lĩnh vực này còn rất hạn hẹp, trong khi cơ chế huy động nguồn lực xã hội lại chưa thật sự thông thoáng, minh bạch và khuyến khích đủ mạnh”. Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) năm 2024, theo PGS.TS Bùi Hoài Sơn, đã có một bước tiến rất quan trọng trong việc gỡ nút thắt này, khi lần đầu tiên xác lập rõ ràng các nguồn lực tài chính có thể huy động cho bảo tồn di sản, cũng như cơ chế quản lý và sử dụng một cách hiệu quả, minh bạch, trách nhiệm. Ông phân tích: “Luật cho phép đa dạng hóa nguồn tài chính cho bảo tồn di sản, bao gồm: ngân sách nhà nước; quỹ di sản văn hóa (do nhà nước hoặc tư nhân thành lập); đóng góp tự nguyện của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước; vốn ODA; nguồn thu từ khai thác di sản (vé tham quan, dịch vụ du lịch, bản quyền hình ảnh, xuất bản phẩm...); và các khoản đầu tư theo mô hình hợp tác công - tư". Điều quan trọng hơn là luật mới không chỉ cho phép huy động, mà còn tạo ra khuôn khổ pháp lý để quản lý chặt chẽ, công khai, minh bạch và có trách nhiệm các nguồn lực này. Ví dụ, luật quy định rõ nguyên tắc sử dụng quỹ phải hướng vào mục tiêu bảo tồn lâu dài, không làm biến dạng giá trị di sản, đồng thời trao quyền giám sát cho cộng đồng và cơ quan chuyên môn. Tức là, chúng ta không chỉ có thêm tiền, mà còn có cách sử dụng tiền hiệu quả và minh bạch hơn. Luật sửa đổi cũng khuyến khích các địa phương xây dựng Quỹ Bảo tồn di sản cấp tỉnh, từ đó tăng tính chủ động cho chính quyền địa phương trong việc chăm lo cho di sản trên địa bàn, thay vì chỉ trông chờ vào ngân sách trung ương. PGS.TS Bùi Hoài Sơn đặc biệt đánh giá cao những quy định mở đường cho việc chia sẻ lợi ích một cách công bằng giữa nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng, trong các dự án khai thác di sản văn hóa vào phát triển du lịch, dịch vụ. Đây là điểm mấu chốt để tạo niềm tin và động lực cho các bên cùng tham gia, cùng đầu tư, cùng có trách nhiệm với di sản. HẠNH ĐỖ - NGUYÊN KHÁNH CÚ HÍCH SỐNG CÒN TỪ LUẬT DI SẢN VĂN HÓA SỬA ĐỔI Đình cổ bị vẽ bích họa gây ảnh hưởng đến giá trị lịch sử văn hóa Không có người trông coi, bảo vệ kiêm nhiệm, giám sát mỏng, phản ứng chậm là thực trạng phổ biến tại hàng nghìn di tích trên cả nước. Trong một hệ thống phân cấp dàn trải và phối hợp lỏng lẻo, trách nhiệm bảo vệ di sản thường xuyên rơi vào tình trạng “cha chung không ai khóc”. Bài 2: Di sản bị bỏ ngỏ Một trong những nguyên nhân sâu xa dẫn đến tình trạng di tích bị xâm hại ở Việt Nam hiện nay không hoàn toàn xuất phát từ những hành vi cố ý phá hoại, mà còn đến từ sự thiếu hiểu biết và ý thức bảo tồn di sản của một bộ phận người dân. Điều này đặc biệt phổ biến ở những địa phương mà người dân sống gần di tích nhưng lại chưa được trang bị kiến thức hoặc hướng dẫn cụ thể về giá trị và quy định bảo vệ di sản. Th.S Nguyễn Văn Tân nhận định: “Chúng ta không thể kỳ vọng người dân sẽ tự biết bảo vệ di tích nếu chưa từng được phổ biến pháp luật, chưa hiểu giá trị di sản mà họ đang sống cùng mỗi ngày”. Anh nhấn mạnh, trong nhiều trường hợp, người dân vô tình gây tổn hại di tích chỉ vì thiếu thông tin, thiếu hiểu biết như việc đình Chèm 2.000 năm tuổi bị “làm mới” mất vẻ cổ kính, cổng cổ đền An Liệt (Hải Dương) bị phá bỏ thay bằng cổng sắt, giếng Ngọc tại đền Lê Văn Hưu (Thanh Hóa) bị xây mới sai nguyên gốc, đình Tư Đông (Hải Dương) bị vẽ bích họa lạc điệu, tháp Bánh Ít (Bình Định) bị khoan lắp biển quảng cáo… Dù đều có phê duyệt từ chính quyền, các công trình vẫn bị biến dạng vì thiếu giám sát chuyên môn, làm mất đi giá trị lịch sử nguyên bản. Việc thiếu các chương trình truyền thông văn hóa bài bản, thiếu các mô hình giáo dục cộng đồng gắn với di tích chính là mảnh đất khiến ý thức bảo vệ di sản chưa thể bén rễ vững chắc. Để xử lý tận gốc, theo PGS.TS Đặng Văn Bài, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật di sản văn hóa ngay từ cấp cơ sở, đồng thời coi cộng đồng cư dân là một “chủ thể đồng hành”, chứ không chỉ là đối tượng giám sát trong việc bảo vệ di tích. Giếng cổ bị phá để làm mới khi trùng tu đền thờ Lê Văn Hưu Thiếu hiểu biết, dân cũng góp phần phá hoại di tích
RkJQdWJsaXNoZXIy MjM5MTU3OQ==