Tiền Phong số 102

TIẾNG VỌNG CHIẾN TRANH Đông đảo văn nghệ sĩ, nhà nghiên cứu lý luận và quản lý tham dự hội thảo khoa học với chủ đề "Nhìn lại văn học viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước sau 50 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước", do Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam, Tạp chí Văn nghệ Quân đội tổ chức. Đại tá, nhà thơ Nguyễn Bình Phương nhấn mạnh: “Văn học đã đồng hành với cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, là vũ khí sắc bén trong nhiều giai đoạn, và trong hòa bình, tiếp tục khâu vá những vết thương tinh thần, giáo dục truyền thống cho thế hệ tương lai”. 50 tham luận gửi về hội thảo là những lát cắt riêng về dòng văn học kháng chiến. Ba nhóm chủ đề lớn được xác định: thành tựu của văn học chống Mỹ, những cách tân và đề xuất hướng viết mới sau 1975, đánh giá các tác phẩm, tác giả tiêu biểu ở cả hai giai đoạn trước và sau năm 1975. Trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, văn học Việt Nam đậm khuynh hướng sử thi, cảm hứng lãng mạn, với mục tiêu cổ vũ tinh thần chiến đấu, góp phần đắc lực vào thắng lợi của cuộc kháng chiến. Những tác phẩm: Người mẹ cầm súng (Nguyễn Thi), Hòn Đất (Anh Đức), Gia đình má Bảy (Phan Tứ), Dấu chân người lính (Nguyễn Minh Châu), Vầng trăng quầng lửa (Phạm Tiến Duật),... đã khắc họa những hình tượng anh hùng, biểu tượng của lòng yêu nước. Tuy nhiên, theo Thượng tá, TS. Phạm Duy Nghĩa, văn học thời kỳ này không tránh khỏi tính sơ lược, công thức, minh họa, một chiều do mục đích tuyên truyền, cổ vũ là chính. Những mặt trái của chiến tranh, những đau thương, mất mát, bi kịch một thời bị né tránh, sẽ được bổ khuyết trong những tác phẩm hậu chiến sau này. Sau năm 1975, đặc biệt từ những năm 1980 đến nay, văn học Việt Nam viết về chiến tranh bước vào giai đoạn thứ hai với sự tìm kiếm vất vả và quyết liệt của tư duy sáng tạo. GS. TS Đinh Xuân Dũng nhận định: “Văn học viết về chiến tranh ngay trong khi chiến tranh đang diễn ra đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử. Vì thế ở giai đoạn hai, văn học trở về với quá khứ chiến tranh tự đặt cho mình một nhiệm vụ: tiếp tục khám phá và cả khám phá lại để phát hiện những vấn đề còn ẩn sâu trong chính quá khứ chiến tranh đó”. GS. Trần Đình Sử trong tham luận về “Nỗi buồn chiến tranh” (Bảo Ninh) cho rằng, tiểu thuyết này không chỉ thay đổi cách nhìn về chiến tranh, mà còn đề xuất một phương pháp viết mới, đó là lời độc thoại nhân vật, không tường thuật, không kể chuyện, mà như một cuộc trầm cảm mang diện mạo văn chương. Tác phẩm này là một bước ngoặt thẩm mỹ quan trọng, khơi dậy nhận thức về “vết thương không lành” và nỗi buồn mang tính bản thể. Khi nhìn lại thơ chống Mỹ, PGS. TS Nguyễn Đăng Điệp cũng đề cao yếu tố cảm xúc thật. “Cách tân nào cũng phải bắt nguồn từ sự chân thực của cảm xúc và sự mạnh bạo trong tư duy nghệ thuật”, ông nói. Thơ thời chống Mỹ, vì thế, không chỉ ca ngợi mà còn là tiếng nói từ những linh hồn “sống đến tận đáy với chính mình và dân tộc”. Từ một góc nhìn khác, văn học thiếu nhi thời chiến cũng là một điểm nhấn. Không còn những em bé hồn nhiên trong sáng, văn học giai đoạn này dựng lên hình ảnh những “đứa trẻ trưởng thành non”, mang thư, chuyển vũ khí, đi trinh sát, những vai trò mà trong hòa bình, ngay cả người lớn cũng phải e dè. KỲ VỌNG VÀO THẾ HỆ NHÀ VĂN TRẺ Nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng, chiến tranh để lại HỌC CHỮ KHI ĐÃ QUA NỬA ĐỜI NGƯỜI Chúng tôi có dịp tận thấy lớp học đặc biệt tại trại giam Đắk Trung (đóng chân trên địa bàn huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk) dành cho các phạm nhân đang chấp hành án tại đây. Trong không gian tĩnh lặng của khu trại, giọng đọc với đủ thanh âm của nhiều lứa tuổi vang lên văng vẳng. “Học sinh” Giàng A V (SN 1970) đang uốn từng nét chữ trên đôi tay đã chai sạn bởi một đời làm nương rẫy. Cách thể hiện tình cảm qua nét chữ, dù ngây ngô nhưng rất chân thật. Khuôn mặt khắc khổ của người đàn ông 55 tuổi chăm chú cao độ lên từng nét trên bảng. Giàng A V là người dân tộc Mông, sinh sống tại xã Cư Kbang, huyện biên giới Ea Súp (Đắk Lắk). Cuộc sống nghèo khổ, không biết chữ, Giàng A V không nhận thức được hậu quả, tác hại của ma túy, trong phút sai lầm đã vi phạm quy định của pháp luật. Cái giá phải trả cho tội “vận chuyển trái phép chất ma túy” là 20 năm tù. Phạm nhân V kể, quê ở tỉnh Hà Giang, vì nghèo khó nên một chữ bẻ đôi cũng không biết. Năm 2006, gia đình theo người quen di cư vào Đắk Lắk sinh sống. Cuối năm 2022, khi đang đi làm rẫy, có một người đàn ông lạ mặt nhờ cầm hộ một bao đi khoảng cây số trả 2 triệu đồng tiền công. Không biết bên trong bao có gì, nhưng V làm theo người lạ mặt. Ông bị công an bắt và phải trả giá cho việc làm sai của mình. Sau khi vào trại giam chấp hành án, Giàng A V xin học lớp xóa mù. “Trước đây chỉ đi rừng, đi rẫy, bảo cầm cuốc thì dễ, chứ cầm bút rất chật vật, tuổi lại cao, học gì cũng khó nhưng tôi vẫn cố gắng được chữ nào hay chữ đấy. Qua một thời gian chăm chỉ học, giờ đây, tôi có thể đánh vần từng dòng chữ trong sách để hiểu hơn về pháp luật”, Giàng A V cho biết. Nhận án phạt 10 năm tù về tội mua bán trái phép chất ma túy, Võ Văn T (SN 1980, trú TP Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk) khi vào chấp hành án tại trại giam, vẫn chưa biết chữ. Sau khi tham gia lớp học xóa mù chữ và chăm chỉ rèn luyện, bây giờ, anh đã tự tin với từng con chữ, có thể đọc thư của người thân. Trước đây T làm nghề thợ mộc để nuôi sống gia đình. Cũng vì không hiểu biết pháp luật, không biết chữ, T đã sa chân vào con đường tội lỗi. “Thấy tôi nỗ lực thay đổi bản Lớp học xóa mù chữ cho các phạm nhân tại trại giam Đắk Trung Hằng năm, trại giam phối hợp đào tạo nghề cho phạm nhân Nơi ấy, những con người lầm lỗi bắt đầu với từng con chữ dưới sự dìu dắt của những người thầy mang sắc phục công an. Lớp học đặc biệt còn nhen nhóm ý chí hoàn lương, mở thêm một cánh cửa ra thế giới bên ngoài. 8 VĂN HÓA - GIẢI TRÍ n Thứ Bảy n Ngày 12/4/2025 Những trang văn từng thổi lửa cho người ra trận được đánh giá như một “binh chủng” đặc biệt. Nhưng hôm nay, khi chiến tranh đã lùi xa, điều cần hơn cả có lẽ là dũng khí để viết lại, sâu hơn và thật hơn. Đó là cách để văn học chiến tranh còn sống, còn chạm được vào những thế hệ chưa từng đi qua bom đạn. Viết thế nào cho thế hệ chưa từng nNGUYỄN THẢO PHÓNG SỰ Lối về nẻo thiện Thơ Lưu Quang Vũ được nhắc đến như tiếng nói “vừa trong sáng, vừa rạn vỡ”, soi chiếu những nghịch lý hậu chiến. Một câu thơ được trích tại hội thảo: “Anh chẳng mang cho đời những tiệc vui ảo ảnh/Nỗi buồn chân thành đời chẳng nhận hay sao?” không chỉ là tự sự, mà còn dự cảm về những giới hạn của chủ nghĩa lý tưởng khi va đập với hiện thực. Nhà thơ Nguyễn Bình Phương cho rằng trong hòa bình, văn học tiếp tục khâu vá những vết thương tinh thần, giáo dục truyền thống cho thế hệ tương lai Trưng bày các tác phẩm tiêu biểu viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ

RkJQdWJsaXNoZXIy MjM5MTU3OQ==