58 Lớp Hán Nôm thuở ấy chỉ có 13 người. Nhưng tất tật 13 ông đồ bà đồ ngày ấy nay đều đã thành danh, trong đó có Cao Văn Dũng tức Cao Tự Thanh sau này! Một Cao Tự Thanh uyên thâm Hán Nôm từng được thụ giáo với các đấng Phan Võ, Cao Xuân Huy, Nguyễn Đình Thảng. Một Cao Tự Thanh sáng danh nhà nghiên cứu độc lập đã có trên 100 cuốn sách, công trình khoa học nổi danh. Một Cao Tự Thanh nhà Trung Quốc học với hơn 40 đầu sách. Một dịch giả uy tín các tác phẩm của Kim Dung, Lương Vũ Sinh, Cổ Long, Vương Độ Lư… như Anh hùng xạ điêu, Lộc đỉnh ký, Huyết anh vũ, Ngọa hổ tàng long… Và Cao tự Thanh là người đầu tiên khảo cứu văn bản, dịch trọn bộ tác phẩm Liêu Trai chí dị của Bồ Tùng Linh! Ông bạn cùng đi đương nổi hứng vân vi lại thuở hàn vi của bạn mình, ông bạn đồng khoa họ Cao này. Như cái thời năm 1979, Cao Tự Thanh được điều về Tổ Nghiên cứu Văn học Cổ cận đại Ban Văn học thuộc Viện Văn; đến 1987 chuyển về làm việc ở Sở Văn hóa và Thông tin tỉnh Long An; làm Trợ lý Khoa học xã hội cho Ban Giám đốc Sở. Đến năm 1988 được bổ nhiệm làm Quyền Giám đốc Bảo tàng tỉnh Long An, nhưng đến tháng 5/1990, đùng cái Cao Tự Thanh xin nghỉ việc Nhà nước! Khởi đầu lộ trình nghiên cứu Hán Nôm không giống ai! Nghĩa là nghiên cứu Hán Nôm và dịch thuật độc lập để mưu sinh. Sống bằng nghề viết, mà là cái nghề nghiên cứu Hán Nôm độc lập chả biên chế tài trợ gì sất. Một Cao Tự Thanh chìm lút trong mặt bằng nghiên cứu lẫn mưu sinh một thời. Có khi thích gì viết nấy không theo yêu cầu của ai, nhưng cũng có khi ông làm vì yêu cầu của những đơn vị hoạt động văn hoá. Số lượng bài viết và công trình nghiên cứu, dịch thuật của ông cứ thế tăng dần, tăng dần… Đây là con số thống kê gần 10 năm trước. Danh mục những bài viết, nghiên cứu, con số lên đến hơn 500 bài. Số sách dịch và công trình nghiên cứu cũng hơn 100 quyển. Đến với công tác nghiên cứu dịch thuật Hán Nôm một cách tình cờ do mưu sinh nhưng sau này lại gắn bó đeo bám như một nghiệp dĩ. Một thứ nghiệp dĩ khác khiến Cao Tự Thanh đắm đuối cùng chi dùng kha khá quỹ thời gian là những mải mốt đề tài Tao đàn Chiêu Anh các ở Hà Tiên. Nghiên cứu, khảo sát về dòng di dân người Hoa đổ xuống Đông Nam Á thế kỷ XVII, những khía cạnh lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ… Nhưng hình như cao hơn thế, Cao Tự Thanh có cái cách thăng hoa lịch sử văn hoá Việt Nam trên địa bàn phía Nam Việt Nam, với các đề tài có liên quan đến hoạt động giao lưu kinh tế - văn hoá giữa Hoa Nam và Việt Nam thế kỷ XVII-XX như văn học Hán Nôm ở Nam bộ, văn học Đàng Trong, Nho giáo ở Gia Định… Những tưởng đã biết tỏng cái xước hiệu của nhà nghiên cứu độc lập tài hoa có tên là Cao Tự Thanh này. Cao, họ của Cao Văn Dũng thì rõ rồi. Còn “Tự Thanh” là tự trong tự lọc chứ còn gì nữa? Nhưng lần này ngồi lại với nhau có chút giật mình. Cứ như lão đương rành rẽ với ông bạn đại loại là thuở sinh viên nghe ông thầy học Nguyễn Đình Thảng ngâm nga giảng nghĩa cái câu trong Vịnh sơn tuyền (Vịnh suối) của thi sĩ Trừ Quang Hy đời Đường: “Điềm đạm kiến thức, Niên niên trường tự thanh “ thấy chữ tự trong tự trọng tự lọc như ở một cấp độ khác? Cao Tự Thanh đang nói về như cái áo trường sam. Thứ áo (áo vạt dài) của người Hoa đọc theo âm Hoa Hán giọng Quảng Đông là sường sám, các tiệm may hiện nay không hiểu bèn cải biên thành sườn xám, có lẽ định gán cho nó một ý nghĩa (cái sườn màu xám?) trong tiếng Việt chăng? Với vẻ mặt nghiêm nghiêm, Cao Tự Thanh bộc bạch rằng, không thể dễ dãi với ngôn ngữ sẽ dẫn tới đại khái về tư duy rồi vô nguyên tắc trong hành vi. Rằng nói thế không phải quá lời đâu, vì ngôn ngữ là công cụ giao tiếp, nếu dễ dãi về ngôn ngữ rất dễ phạm lỗi dù là vô tình trong ứng xử. Sự đại khái về tư duy ngôn ngữ vì thế có hại hơn nhiều người tưởng. Ngày xưa người ta viết bằng bút lông, để ngòi bút khô lâu sẽ giòn gãy rụng lông (Câu “Trúc se ngọn thỏ tơ chùng phím loan” trong Kiều của Nguyễn Du là nói là trỏ, chỉ vào trường hợp này) nên thỉnh thoảng phải nhúng nước. Vì thế các báo chí, nhà xuất bản ở Trung Quốc trả tiền thù lao cho tác giả đều gọi nhã là tiền nhuận bút (thấm ướt ngòi bút). Về sau viết bài bằng bút sắt rồi bút bi, máy đánh chữ và bây giờ viết trên máy tính tất tật cũng được gọi là trả tiền nhuận bút! Nhưng trường hợp từ nhuận ảnh thì cũng cần phải đôi hồi lại. Bởi không lẽ là làm… ướt máy ảnh? Cao Tự Thanh cười kể lại một chuyện cũ. Tháng 6/1975 Cao Tự Thanh từ Hà Nội về tới Sài Gòn, đổi được ít tiền miền Nam bèn đi chơi. Nhìn thấy xe bán bò bía bèn sấn vào gọi mấy cuốn. Háo hức mở ra chỉ thấy bên trong lạp xưởng, tép khô với rau. Hỏi nữa, sao không có thịt bò? Cô nhỏ bán hàng thấy Thanh mặc áo bộ đội liền cười ngạc nhiên cái này đâu có bò chú. Lại hỏi không có bò sao gọi là bò bía? Lại cười, chèng đéc (trời đất) người ta kêu sao con kêu vậy chứ con đâu biết! Găm mãi trong mình thắc mắc ấy, tận mấy năm sau Cao Tự Thanh lần ấy ngồi với ông Tăng Văn Hỷ, tác giả nhiều quyển từ điển Hán Việt… Sực nghĩ ra, Thanh hỏi ông là người bang nào. Ông nói là người Triều Châu. Cao Tự Thanh hỏi hai chữ bò bía có phải giọng Triều Châu không? Ông cười chú hỏi đúng người rồi, chú biết chữ Hán nên tôi không cần nói nhiều… Rồi ông viết ra hai chữ Hán. Chữ bạc bính. Bạc bính là thứ bánh mỏng (bánh tráng), đọc theo âm Hoa Hán giọng Triều Châu. Từ pò pía chuyển thành bò bía cho phù hợp với ngữ âm và từ vựng tiếng Việt thì được dùng để đại diện cho cái món bánh tráng cuốn lạp xưởng tép khô với rau. Một loại bánh ngọt có nhân đậu xanh, sầu riêng, dừa ở miệt Sóc Trăng cũng được gọi là bánh bía cũng là theo nguyên tắc đại diện này. Tức bía đã trở thành danh từ riêng, chứ trên thực tế pía vốn là bánh nói chung. Một lần Cao Tự Thanh đi dự hội nghị chữ Nôm quốc tế ở Siem Riep. Trong bữa ăn gặp mặt ở một nhà hàng tự chọn, thấy menu có món soup de Vietnam. Rồi ngó thêm cái hình thì đích thị là món lẩu. Cao Tự Thanh thầm nghĩ, ít ai hay, LẨU là âm Hoa Hán giọng Quảng Đông. Còn âm Việt Hán là LÔ tức cái bếp lò, đây chỉ một loại nồi đặc biệt gắn liền với lò, rất tiết kiệm năng lượng. Vật dụng này vốn của người Mông Cổ trước cả thời Thành Cát Tư Hãn, quân kỵ Mông Cổ hành quân thường mỗi người hai ngựa, một con chở người, một con chở lương thực và trang bị khác, trong đó có một cái túi đựng phân ngựa. Ngựa ăn cỏ nên phân nhiều xenluylô, phơi khô cháy rất đượm, họ dùng phân ấy làm chất đốt kết hợp với cái lò tiết kiệm năng lượng kia nên khi hành quân vẫn được ăn nóng, giữ được sức chiến đấu. Sau khi nhà Nguyên chiếm Trung Quốc, loại nồi gắn lò (hay lò gắn nồi) này truyền tới Giang Nam rất được giới thương nhân ngư dân và cả bọn thủy khấu hải tặc đi sông đi biển hoan nghênh vì tiện dùng ở những nơi gió lớn, từ đó nó có tên Tàu. Đến khi nhà Thanh chiếm Trung Quốc, nó lại theo thuyền các di thần phản Thanh phục Minh Hoa Nam trôi qua Việt Nam mà đặc biệt là Đàng Trong. Trên nguyên tắc nó là cái lò nhưng được dùng để gọi chung các món canh nhiều mỡ cần ăn nóng. Việt Nam vẫn gọi theo tên Tàu là LẨU, bây giờ theo chân người Việt lên biên giới Campuchia - Thái Lan mang tên lai Pháp. Gọi là soup de Vietnam (món súp Việt) nghe cũng tàm tạm! …Và cũng tạm lẩy ra vài thứ cũ, mới về học giả Cao Tự Thanh trong lần gặp vội mới đây. Chuyện về vị này đương còn dài dài… Như các tập dày cộp mà lão đã khảo cứu công phu và dịch ra tiếng Việt như Lịch sử ăn mày. Lịch sử lưu manh… chẳng hạn n Học giả Cao Tự Thanh với bạn bè XUÂN BA MỚI & CŨ Hàn nho Nam bộ Cao Tự Thanh! Học giả Cao Tự Thanh. Tất bật, vội vã ghé Sài Gòn, nhưng vẫn còn chút kẽ hở để rình rang. Vẫn phải có chút thời gian để ngồi với Cao Văn Dũng để ngoái để nhớ cái thời Khoa Văn Hán ngữ Khóa 17 sơ tán ở đình làng Sát Thượng Yên Phong Hà Bắc năm 1972. CAO TỰ THANH Trở lại cái nghiệp dĩ khảo sát nghiên cứu dòng di dân người Hoa đổ xuống Đông Nam Á thế kỷ 17 từng đeo bám nhà nghiên cứu độc lập lâu nay, lần này ngồi với Cao Tự Thanh, trong câu chuyện thoạt nghe cứ ngỡ như trà dư tửu hậu nhưng gẫm thêm thấy bạn mình đã chú tâm cùng khổ ải như nào.
RkJQdWJsaXNoZXIy MjM5MTU3OQ==