24 TỪ THẦY GIÁO TÂM HUYẾT Đầu tháng 3/1945, Nhật đảo chính Pháp tại Đông Dương. Tranh thủ bối cảnh này, GS Phạm Đình Ái (19081992, quê Quảng Nam), Hiệu trưởng trường Khải Định (trường Quốc học Huế hiện nay) đã gấp rút thực hiện cuộc cải tổ căn bản về giáo dục, đó là dùng Việt ngữ làm chuyển ngữ trong các trường, để người Nhật không kịp can thiệp vào tổ chức giáo dục mới của ta. Việc này được sự đồng tình, góp sức của các giáo sư trường Khải Định và đồng nghiệp dạy các trường tư thục lớn như GS Tạ Quang Bửu, Hà Thúc Chính, nhà văn - giáo sư quốc văn Hoài Thanh. Ngoài ra còn có nhà giáo - sử gia Trần Trọng Kim, GS Hoàng Xuân Hãn. Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, GS Phạm Đình Ái được Ủy ban hành chính Trung bộ bổ nhiệm Giám đốc Nha Giáo dục kiêm Hiệu trưởng trường Khải Định. Đầu năm 1947 tất cả các cơ quan Nha - Sở cấp liên khu đều phải sơ tán ra vùng tự do Nghệ Tĩnh để kháng chiến lâu dài. Từ đây cuộc đời GS Phạm Đình Ái rẽ sang một bước ngoặt khác. Ông nhớ lại ngày đầu tiên cuộc kháng chiến toàn quốc năm 1946 bùng nổ. Có một thực tế là có những nơi quân ta ném lựu đạn vào lính Pháp nhưng không nổ, nhưng lại có những quả nổ quá nhanh, thậm chí nổ ngay trên tay người sử dụng. Trước tình thế ấy, quân đội đã yêu cầu sự giúp đỡ của những người am hiểu về hóa chất và cơ khí chế tạo. Là kỹ sư Hóa học từ Pháp về, GS Phạm Đình Ái được giao thêm nhiệm vụ này. Trung ương nhận định cuộc kháng chiến sẽ kéo dài, nên GS Phạm Đình Ái đã xây dựng kế hoạch làm sao cho thanh niên khỏi bỏ dở việc học hành. Ông cho dời trường Trung học chuyên khoa Khải Định và trường Kỹ thuật đệ nhất cấp, là hai trường duy nhất của miền Trung tại Huế ra Nghệ Tĩnh. Xe lửa Huế - Vinh lúc đó còn hoạt động nên ông cho chuyên chở những thiết bị cồng kềnh của thư viện và phòng thí nghiệm ra thị trấn Chu Lễ, thuộc huyện Hương Khê nằm ven trục đường sắt Nam - Bắc. Nơi đây đã mở thêm một một trường đệ nhất cấp, gọi là trường Bình Trị Thiên, dành riêng cho con em ba tỉnh này rời gia đình đi theo kháng chiến. THÀNH CHUYÊN GIA VŨ KHÍ Tại đây, Ủy ban hành chính Kháng chiến Liên khu Bốn giao nhiệm vụ cho GS Phạm Đình Ái mở một phòng thí nghiệm điều chế hóa chất phục vụ cho quân đội sản xuất vũ khí. Giáo sư đã triệu tập nhiều giáo viên trẻ của trường Khải Định, những giáo viên có chuyên môn Hóa - Lí giỏi, trong đó có những học trò giỏi của mình. Nhà giáo ưu tú Thân Trọng Ninh cho tôi xem một tập hồi kí viết tay, về thời kì dạy học ở Nghệ Tĩnh và thời kì làm cộng sự cho GS Phạm Đình Ái ở phòng thí nghiệm. Ông Thân Trọng Ninh kể: “Khi kháng chiến bùng nổ, tôi nhận lệnh ra dạy ở trường Phan Bội Châu đóng tại thị xã Đồng Hới. Đang dạy học yên ổn thì lại nhận tiếp công lệnh của Nha Học chánh điều động ra làm việc tại “Phòng thí nghiệm số 1” (gọi tắt là P1) ở Chu Lễ. Thầy Ái còn điều một số bạn đồng nghiệp của tôi như các anh Cung Quang Chương, Tôn Thất Uẩn, Nguyễn Xuân Dỹ… cùng về đây. Ban đầu thầy giao cho tôi công việc sản xuất salpêtre (KNO3) tinh chế để làm poudre noire (bột đen thuốc súng). Một năm sau, thầy điều tôi sang bộ phận thí nghiệm sản xuất acide sulfurique (H2SO4) bằng “phương pháp phòng chì” cùng với anh Hoàng Trọng Cơ, do thầy trực tiếp phụ trách. Những ngày sống gần thầy tôi càng hiểu và quý mến thầy hơn. Thầy là một trí thức, một nhà giáo, một nhà khoa học giỏi được đào tạo ở Pháp nhưng thích nghi nhanh chóng với hoàn cảnh của đất nước. Thầy là một nhà yêu nước, có nhiều đóng góp lớn cho ngành giáo dục và quốc phòng trong thời gian đầu của cuộc kháng chiến”. P1 ở bên cạnh xưởng cơ giới Liên khu Bốn. Trong giai đoạn máy bay của Pháp ráo riết dò tìm những cơ sở kháng chiến của ta, P1 phải chuyển địa điểm nhiều lần nhưng công việc nghiên cứu, sản xuất hóa chất vẫn không gián đoạn, cán bộ, nhân viên chia nhau làm việc ba ca, máy chạy không nghỉ, dù môi trường làm việc độc hại, đặc biệt là khí sulfurơ. Trong điều kiện thiếu thốn nhưng P1 đã đóng góp cho kháng chiến rất nhiều. P1 đã tinh chế thành công hàng tấn salpêtre thuốc súng chuyển từ Huế ra thành chất Nitrate Potassium (KNO3), điện phân chlorure potassium (KCl), điều chế acide nitrique (HNO3), acide chlorhydrique (HCl), sản xuất chlorate potassium (KClO3), fulminate thủy ngân, chưng gỗ thầu đâu (xoan) để lấy than sản xuất ammoniaque (NH4OH), acide picrique. Đặc biệt nhất là điều chế được acide sulfurique (H2SO4) bằng “phương pháp phòng chì”. Acide sulfurique là một hóa chất tối cần thiết cho việc điều chế các loại acide khác, dùng làm acquy, sản xuất mực in. Việc điều chế được nó trong điều kiện khó khăn muôn bề, tại nơi rừng sâu hẻo lánh là điều chưa ai dám nghĩ tới. Với thành tích có tính huyền thoại này, P1 đã được Bộ Quốc phòng khen ngợi. Ngày 12/6/1948, tại Chu Lễ, đoàn Chính phủ Trung ương do Thứ trưởng Bộ Giao thông Công chính Lê Dung làm đại diện đã đọc bản Tuyên dương công trạng và gắn Huân chương kháng chiến cho GS Phạm Đình Ái. Đặc biệt, GS Phạm Đình Ái còn được Bác Hồ viết thư khen ngợi. Đài Tiếng nói Việt Nam đã đọc Quyết định này, phát thanh ra nước ngoài để thế giới biết “dân tộc Việt Nam không lùi bước trước khó khăn nào”. Ông Ninh cho tôi xem tờ báo Công Nhân, có đăng bài diễn văn trong lễ tuyên dương công trạng GS Phạm Đình Ái: “… Đứng về phương diện kháng chiến, sự thành công này (điều chế acide sulfurique) mở ra một kỷ nguyên mới trong công cuộc sản xuất vũ khí và đem lại rất nhiều tin tưởng ở thắng lợi cuối cùng của dân tộc Việt Nam chống đế quốc Pháp xâm lược… Sự thành công này thực hiện được trong giai đoạn kháng chiến, trong điều kiện vô cùng khó khăn mà trong thời bình với những điều kiện trăm lần thuận tiện hơn, ta không thực hiện được, mặc dầu có nhiều kỹ sư ngoại quốc giúp đỡ. Vì thế, sự thành công này vô cùng quí báu và có thể cho phép chúng ta hãnh diện với người nước ngoài. Được như thế là do công trình của ông Phạm Đình Ái…”. Trong khi tại Chu Lễ rất sôi nổi với sự kiện này thì cách đó nửa nghìn cây số, tại một làng quê hẻo lánh trong thung lũng Trung Phước, huyện Quế Sơn (nay là Nông Sơn, Quảng Nam), một phái đoàn Ủy ban hành chính xã thừa lệnh cấp trên đã đến Từ đường của GS Phạm Đình Ái xin phép thân mẫu giáo sư tuyên đọc Quyết định của Bộ Quốc phòng về tuyên dương công trạng. Thân mẫu giáo sư đang ốm nặng nhưng gắng gượng ngồi dậy, bà xấp hai bàn tay, quay người ra hướng Bắc, kính bái vọng Hồ Chủ tịch… n Đó là Giáo sư Phạm Đình Ái, người rời bỏ cuộc sống ở Pháp về tham gia kháng chiến, lập nên những kỳ tích khoa học quân sự giữa núi rừng miền Trung. Gác bút nghiên l THANH TÙNG “…Ngài đã có công rất nhiều về phương diện nêu cao tinh thần kháng chiến bằng cách làm việc, bằng cử chỉ của Ngài, vì trái với một số người trí thức do bị tuyên truyền nói rằng “làm việc bây giờ là làm việc cho Việt Minh, cho một Đảng”. Còn Ngài thì đã cho mọi người hiểu rằng, làm việc lúc này là “làm việc cho nước Việt Nam, cho dân tộc Việt Nam”. Trong lúc có ngoại xâm giày xéo trên đất nước, tất cả người Việt Nam đều phải đứng dậy để đánh quân xâm lược…”. Trích diễn văn tuyên dương công trạng GS PHẠM ĐÌNH ÁI ngày 12/6/1948 NGƯT Thân Trọng Ninh xem lại hai cuốn phim ông chụp ngày tiếp quản Thủ đô 10/10/1954 ẢNH: THANH TÙNG Giáo sư Phạm Đình Ái, người trí thức dấn thân ẢNH: TL TẦM VÓC VIỆT
RkJQdWJsaXNoZXIy MjM5MTU3OQ==