Tiền Phong số đặc biệt 2-9-2024

TOYOTA KIÊN ĐỊNH VỚI ĐỊNH HƯỚNG XE HYBRID TẠI VIỆT NAM Với 2.085 xe hybrid bán ra thị trường 7 tháng đầu năm 2024, Toyota Việt Nam chiếm đến 50% thị phần doanh số. Khép lại tháng 7/2024, Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô Việt Nam công bố doanh số xe hybrid của các thành viên đạt 695 xe. Riêng doanh số Toyota Hybrid đạt 404 xe. Sự tăng trưởng đều trong doanh số và sự tham gia của nhiều hãng là điểm sáng chứng minh dòng xe Hybrid đang dần khẳng định được vị thế. Năm 2020, Toyota là hãng tiên phong giới thiệu công nghệ Hybrid trên xe phổ thông với Corolla Cross Hybrid. Khi đó, Tổng Giám đốc Toyota Việt Nam, ông Ueda Hiroyuki đã phát biểu: “Corolla Cross được định vị là mẫu xe dẫn đầu xu thế, đó là kỳ vọng của chúng tôi đối với mẫu xe này” và sau 4 năm, điều này đã trở thành hiện thực. Khởi đầu từ Toyota, nhiều hãng xe khác cũng đã giới thiệu phiên bản Hybrid như Suzuki, Honda, Kia góp phần mang đến nhiều lựa chọn cho khách hàng và gia tăng nhận diện của loại xe này ở Việt Nam. Với riêng Toyota, từ những nghi ngờ, sự dè dặt ban đầu của khách hàng về công nghệ mới trên Corolla Cross, đến nay đã có hơn 10 nghìn xe Toyota Hybrid được bàn giao cho người dùng. Một trong những ưu điểm nổi bật nhất của xe Hybrid là khả năng tiết kiệm nhiên liệu, góp phần bảo vệ môi trường. Những chiếc xe Hybrid thường cho mức tiêu hao nhiên liệu bằng một nửa so với những lựa chọn xe xăng cùng loại. Ví dụ theo công bố từ Toyota, Corolla Cross HEV cho mức tiêu thụ nhiên liệu trong khoảng 3,01 đến 4,05 L/100km tuỳ điều kiện vận hành, thấp hơn đáng kể so với con số 6,16 - 9,9L/100km của phiên bản xăng. Hay với Innova Cross Hybrid - một mẫu MPV cỡ trung cũng cho hiệu quả tiết kiệm nhiên liệu vượt trội với 4,35 - 5,26L/100km tuỳ điều kiện, con số đáng mơ ước ngay cả với những mẫu xe cỡ nhỏ chạy xăng. Bên cạnh đó, xe Hybrid còn mang đến trải nghiệm vận hành êm ái, không cần hệ thống trạm sạc và không làm thay đổi thói quen lái xe của người tiêu dùng. Điều đó có nghĩa, người dùng hoàn toàn không cần phải tính toán trước quãng đường, có thể đi đến nhiều địa hình khác nhau mà không cần lo lắng về việc sạc xe. Ngoài ra, các xe Toyota Hybrid đều là phiên bản cao cấp nhất của các mẫu xe có lựa chọn này và trang bị hệ thống Full Hybrid đi cùng nhiều tiện nghi và tính năng an toàn hiện đại như gói an toàn tiên tiến Toyota Safety Sense (TSS) - điều mà 5 năm trở về trước còn hiếm thấy trên các xe của Toyota. Những sự thay đổi theo hướng tích cực và lắng nghe khách hàng đã giúp Toyota “ghi điểm” và dần chiếm được cảm tình của khách hàng trong cả dải sản phẩm nói chung và phiên bản Hybrid nói riêng. Sự kiên định của Toyota trong việc phát triển dải sản phẩm xe Hybrid đã đóng góp không nhỏ cho mục tiêu giảm phát thải chung, tuy nhiên để mục tiêu này phát triển xa hơn nữa sẽ cần sự chung tay của nhiều bên, trong đó những quy định của Chính phủ sẽ tác động không nhỏ bên cạnh những nỗ lực của từng hãng xe riêng lẻ. TOYOTA TIẾP TỤC DẪN ĐẦU THỊ TRƯỜNG XE DU LỊCH VIỆT NAM Theo báo cáo từ VAMA, Toyota không chỉ là nhà sản xuất dẫn đầu trong cuộc đua Hybrid mà còn là hãng xe con bán chạy nhất thị trường 7 tháng đầu năm với 28.817 chiếc, tạo khoảng cách an toàn với các đối thủ xếp sau. Tính riêng tháng 7/2024, Toyota đã giao thành công 6.479 xe đến tay khách hàng, tạo khoảng cách hơn 2.000 xe so với Hyundai. Trong top 10 xe bán chạy nhất thị trường tháng 7/2024, Toyota có 3 đại diện là Vios, Yaris Cross và Veloz Cross. Theo dự đoán từ chuyên gia, với việc chính sách bán hàng linh hoạt cùng triển lãm ô tô Việt Nam trở lại vào tháng 10 tới đây, Toyota sẽ tiếp nối đà tăng trưởng trong cuộc đua doanh số các tháng cuối năm. Trong đó, với ưu thế dải sản phẩm Hybrid đa dạng trải dài nhiều phân khúc, hãng Nhật được kỳ vọng giữ vững vị thế tiên phong trong mảng xe này. n Theo số liệu từ Hiệp hội các nhà sản xuất ôtô Việt Nam (VAMA), 4.143 chiếc xe Hybrid đã được các hãng xe thành viên bán ra tại thị trường Việt Nam trong 7 tháng đầu năm, trong đó Toyota chiếm đến 50% thị phần. l MINH NGỌC Trong top 10 xe bán chạy nhất thị trường tháng 7/2024, Toyota có 3 đại diện là Vios, Yaris Cross và Veloz Cross Toyota Việt Nam dẫn đầu thị trường xe hybrid 7 tháng đầu năm 2024 Ngành công nghiệp Đồ uống (chủ yếu gồm các sản phẩm bia, rượu, nước giải khát) đã đóng góp vào sự phát triển của nền kinh tế với mức tăng trưởng về giá trị sản xuất bình quân trên 10% mỗi năm. Tỉ trọng giá trị sản xuất công nghiệp của ngành chiếm khoảng gần 6% tổng giá trị ngành công nghiệp cả nước. Các sản phẩm của ngành gắn liền với truyền thống, văn hóa, lịch sử lâu đời cũng như đời sống của người dân trong hiếu, hỷ, thờ cúng tổ tiên, trong các bữa tiệc chiêu đãi ngoại giao và là một nét đẹp trong văn hóa ẩm thực của người Việt và các vùng miền trên cả nước cần được gìn giữ, nâng cao nhận thức để sử dụng nó một cách có văn hóa, trách nhiệm. Ngành công nghiệp đồ uống dần bắt đầu xuất hiện tại Việt Nam từ thế kỷ 19. Ngày nay ngành đã đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, thúc đẩy dịch vụ du lịch, giải trí, đầy lùi vấn nạn hàng lậu và dần khẳng định vị trí, thương hiệu đồ uống của người Việt. Các sản phẩm Đồ uống rất đa dạng, phong phú, hội tụ đủ các thương hiệu lớn, mẫu mã đẹp, chất lượng ngày càng được nâng cao, thu hút tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. KHÓ KHĂN, THÁCH THỨC VÀ CHỊU NHIỀU TÁC ĐỘNG Mặc dù luôn cố gắng bằng nội lực, thích ứng với bối cảnh nhưng các DN ngành Đồ uống vẫn còn ghi nhận rất nhiều khó khăn thách thức đặc biệt từ sau đại dịch COVID - 19, tình hình xung đột, căng thẳng địa chính dai dẳng, tác động kép từ một số chính sách hạn chế đồ uống có cồn có sẵn như Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia; Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt; Luật Thương mại; Luật Quảng cáo; Luật Bảo vệ môi trường và Nghị định 100 với việc ưu tiên thực thi trong thời gian dài… Doanh nghiệp ngành bia, rượu đều ghi nhận sụt giảm từ một tới hai con số về sản lượng, doanh thu, lợi nhuận, các DN phải tái cơ cấu, thu hẹp quy mô sản xuất, cắt giảm sản xuất, lao động v.v. kéo theo sự ảnh hưởng gián tiếp tới cả chuỗi trồng trọt, chăn nuôi, cung ứng các sản phẩm nông nghiệp và các ngành hàng phụ trợ. Hiện nay trên 63% rượu bất hợp pháp không quản lý được do chính sách chưa phù hợp gây ảnh hưởng tới sức khỏe người tiêu dùng, thất thu ngân sách lớn, người tiêu dùng chuyển sang sản phẩm rẻ tiền, gây ngộ độc... Tổng tổn thất tài chính từ khu vực phi chính thức ước tính vào khoảng 2.816 triệu USD. Trong đó, tổn thất tài chính từ việc sản xuất là 751 triệu USD, từ các hoạt động buôn lậu và sản xuất hàng giả, hàng nhái vào khoảng 2.015 triệu USD Bên cạnh đó dự báo xu thế ngành bia, ngành có chiếm tỉ trọng lớn trong ngành đồ uống, sẽ tiếp tục giảm trong thời gian tới, dẫn đến giảm về sản lượng, kéo theo giảm cả thu ngân sách và các vấn đề liên quan khác. TÁC ĐỘNG CỦA ĐỀ XUẤT TĂNG THUẾ TIÊU THỤ ĐẶC BIỆT (SỬA DỔI) ĐỐI VỚI NGÀNH ĐỒ UỐNG Ngành đồ uống tuân thủ tốt các quy định chính sách của nhà nước. Là đối tượng chịu tác động trực tiếp từ Luật thuế TTĐB (sửa đổi), các doanh nghiệp Đồ uống vô cùng lo lắng và chưa thể đánh giá hết được các tác động to lớn, lan tỏa với đề xuất tăng thuế TTĐB “sốc” lớn nhất chưa từng có trong lịch sử đối với rượu bia lên tới 100% vào năm 2030. Đồng thời, bổ sung Nước giải khát có hàm lượng đường lớn hơn 5g/100ml theo Tiêu chuẩn Việt Nam vào đối tượng chịu thuế suất thuế TTĐB với thuế suất là 10%. Ngành vô cùng quan ngại với mức tăng thuế quá cao như đề xuất hiện nay. Tăng thuế sẽ làm giá sản phẩm tăng cao, người tiêu dùng sẽ có xu hướng chuyển sang các sản phẩm bất hợp pháp, tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với sức khỏe, gây thất thu ngân sách trong khi vị trí, vai trò và những đóng góp của ngành đồ uống chưa được ghi nhận và quan tâm đúng mức. Chính sách thuế là vấn đề rất phức tạp, để đạt được tính đồng thuận cao, hợp lý, hài hòa các lợi ích, khi xem xét điều chỉnh cần: Cẩn trọng, đánh giá toàn diện các tác động tới đối tượng trực tiếp, gián tiếp, đến người tiêu dùng, ngân sách, kinh tế, môi trường đầu tư, lao động, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, bên cạnh mục tiêu bảo vệ sức khỏe cộng đồng. Thực hiện đánh giá định lượng với các mô hình tính toán khoa học, định lượng dựa trên các số liệu thực tế, sự thay đổi về mối quan hệ giữa thuế suất và thu ngân sách (đường cong Laffer), thay đổi về thói quen, hành vi của người tiêu dùng khi sản phẩm tăng giá do tăng thuế, v.v. Các đánh giá có cơ sở khoa học, đặt vào bối cảnh thực tế cả về lĩnh vực tài chính và an sinh xã hội, chiến lược phát triển kinh doanh của DN đã đầu tư ở Việt Nam. Từ đó cân nhắc, lựa chọn lộ trình áp dụng, mức tăng thuế phù hợp, hài hòa tạo điều kiện để doanh nghiệp, thị trường, người tiêu dùng thích nghi, tạo ổn định kinh tế vĩ mô và vấn đề an sinh xã hội. Đây cũng là mong mỏi của cộng đồng doanh nghiệp ngành đồ uống trong quá trình sửa đổi sắc thuế quan trọng này. n Với các nhà máy phân bổ hầu khắp các tỉnh thành cả nước, ngành đồ uống có vai trò kinh tế quan trọng khi luôn đứng ở vị trí những doanh nghiệp hàng đầu trong các hoạt động đem lại nhiều lợi ích kinh tế - xã hội tại các địa phương. Hàng năm, toàn ngành Đồ uống đóng góp vào ngân sách nhà nước khoảng 60 nghìn tỷ đồng mỗi năm, giải quyết việc làm trực tiếp và gián tiếp cho hàng triệu lao động tại các nhà máy sản xuất và chuỗi cung ứng dịch vụ, nhà hàng, khách sạn, khu vui chơi giải trí v.v. Các doanh nghiệp trong ngành luôn tiên phong trong các hoạt động vì cộng đồng, an sinh xã hội, đặc biệt quan tâm đến bảo vệ môi trường, tiết kiệm năng lượng, bảo vệ nguồn nước, thực hiện kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và phát triển bền vững. lVÂN ANH Ngành Đồ uống Việt Nam đóng góp gần 60 nghìn tỷ đồng ngân sách mỗi năm CĐ56 DOANH NGHIỆP PHÁT TRIỂN

RkJQdWJsaXNoZXIy MjM5MTU3OQ==