8 VĂN HÓA - GIẢI TRÍ n Thứ Tư n Ngày 27/3/2024 TỪ NGƯỜI MANG GƯƠM ĐI MỞ CÕI… Đến Phú Yên, trong đầu tôi cứ văng vẳng câu “hò Phú Ơn”, rằng Chiều chiều mượn ngựa ông Đô/ Mượn kiều chú lính đưa cô tôi về/ Cô về chẳng lẽ về không/ Ngựa ô đi trước, ngựa hồng theo sau/ Ngựa ô đi tới Quán Cau/ Ngựa hồng thủng thỉnh đi sau Gò Điều… Câu hò đưa chúng ta về khung cảnh xa xưa của những năm thế kỷ 16 (1597), khi Lương Công (tức Lương Quận Công Lương Văn Chánh) theo lệnh Chúa Nguyễn đưa 4.000 người vượt đèo Cù Mông khẩn hoang, lập ấp, kiến tạo vùng đất Phú Yên ngày nay. Là nơi hoang địa, nước độc rừng thiêng, có thể hình dung cảnh một anh lính phải dỗ vợ, để mai kia ổn ổn tôi mượn ngựa ngài đô đốc đưa cô mình về. Sau hàng trăm năm thăng trầm, nơi “cô tôi” chẳng muốn đến nay đã trở thành miền đất Phú trời Yên, đúng như câu hò giễu nhại, “chỉ sợ lúc ấy cô chẳng muốn về, ngựa ô tôi đến (đèo) Quán Cau, ngựa hồng cô vẫn ở Gò Điều”. Nay Quán Cau, Gò Điều (đều thuộc huyện Tuy An) vẫn còn đó, nhưng khoác lên mình dáng hình mới, sầm uất và hiện đại. Cách đó không xa, ở huyện Phú Hiệp, vẫn còn một nơi lưu giữ những chứng tích xa xưa thời mở cõi. Chính là đền thờ Lương Công, người được sử nhà Nguyễn ghi nhận là “công thần hồi quốc sơ, khai thác đất đai, mở rộng biên giới, công lao rõ rệt”. Đứng trước cánh cổng sơn xanh và ngắm bức tượng lớn cụ Lương Văn Chánh phía đằng xa, chúng tôi còn chưa kịp lên tiếng thì một người đàn ông quắc thước bước đến. Ông giải thích, “chuẩn bị ngày giỗ cụ (19/9 âm lịch) nên công việc lu bu quá, chưa ra đến ngoài để mở cổng, bỗng sao nóng ruột chạy ra, biết ngay có khách”. Vừa dẫn chúng tôi vào, ông vừa giới thiệu mình là Lương Sơn Bá, cháu đời thứ 18 của cụ Lương Văn Chánh, được giao trọng trách trông coi đền thờ. Bằng niềm tự hào cùng sự thông tuệ, ông kể cho chúng tôi nghe sự nghiệp hiển hách của cụ Lương Văn Chánh. Với tài năng, tầm nhìn xa và tấm lòng giúp dân an cư lạc nghiệp, trong thời gian từ 1597 đến 1611, Lương Công đã lập ra gần 100 ngôi làng, bao gồm làng Phụng Các (nay là thôn Long Phụng, xã Hòa Trị), nơi chúng tôi đang đứng. Khi cụ mất (1611), được tấn phong Phù Quốc công, suy tôn Thành hoàng, Thần bảo hộ dân, đây trở thành đền thờ để nhân dân đời đời nhang khói. Qua cổng tam quan rêu phong phủ kín, ông Bá nói rằng những năm chiến tranh, đền bị tàn phá nặng nề, con cháu họ Lương cũng ly tán, chỉ mang theo các sắc phong, gia phả. Trở lại sau ngày giải phóng đất nước năm 1975, xung quanh là khung cảnh điêu tàn, cây cối rậm rạp như rừng. Cổng tam quan chỉ còn tàn tích, riêng một phần ngôi đền còn giữ được chính nhờ cây bồ đề bao bọc, trùm kín. Đây là một sự kỳ diệu của tạo hóa, đồng thời làm tăng thêm tính linh thiêng của ngôi đền. Năm 1996, mộ và đền thờ cụ Lương Văn Chánh được nhà nước công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Đến 2011, tròn 400 năm ngày cụ mất, đền thờ mới cũng được khánh thành, vừa là nơi thờ phụng, trưng bày thần tượng, 14 đạo sắc phong, vừa là địa điểm tổ chức lễ hội ngày 6/2 âm lịch, kỷ niệm ngày Lương Công “kết lập gia cư, khai canh thôn làng, làm ruộng thu tô”. “Đó là dịp để tưởng nhớ công ơn các bậc tiền nhân, những người mở nước, và cả những người giữ nước”, ông Bá nói. Phú Yên không chỉ được thiên nhiên ưu ái, ban tặng những danh thắng độc nhất vô nhị, đó còn là mảnh đất kiệt hiệt, với những anh hùng góp phần quan trọng vào tiến trình mở nước, và giữ nước. nTHANH HẢI - XUÂN TÙNG KÝ SỰ Đền thờ Lương Văn Chánh ở huyện Tuy An, Phú Yên ẢNH: NHƯ Ý Bài 1: Địa linh sinh hào kiệt Đây là một sự đáng tiếc, bởi Sáng đ½n là phim có nhiều ưu điểm vượt trội so với mặt bằng phim Việt, mang đến một câu chuyện giàu cảm xúc, đậm chất văn hóa Việt. Có thể nói, đây là một bước chuyển gây bất ngờ của đạo diễn Hoàng Tuấn Cường - chuyên làm phim kinh dị. Phim cũng cho thấy một hướng đi hợp lê cho phim Việt hiện nay: hướng vào những đề tài đời thường, dung dị không đòi hÏi kì xảo, kinh phí cao. Sáng đ½n cho thấy tâm huyết và sự tìm hiểu khá kì càng về cải lương khi dựng lại chỉn chu một số trích đoạn cải lương kinh điển. CHỢ CHIỀU CẢI LƯƠNG Sự hấp dẫn của phim nhờ phần lớn vào kịch bản của Tô Thiên Kiều - soạn giả kiêm diễn viên cải lương sung sức thời gian này. Tham vọng của chị là truyền tình yêu cải lương tới khán giả qua việc cung cấp ngồn ngộn những thông tin, tình tiết cho thấy toàn cảnh đời sống của cải lương trong thập niên 1990, các nghệ sË trong một gánh hát miệt vườn đã sống, đã yêu ra sao. Sáng đ½n thuộc loại phim có thể điều khiển khán giả hết cười lại khóc, khi đan xen các cảnh bi hài khá tinh tế. Gánh hát Viễn Phương cha truyền con nối một thời nức tiếng đô thành lúc này phải trôi dạt khắp các vùng quê. Họ dựng rạp diễn ngoài trời, khán giả lúc đông lúc vắng, không ít người tìm cách xem chùa. Đôi khi họ còn bị mấy tay anh chị địa phương đến đòi tiền. Cũng có lúc họ rơi nước mắt hạnh phúc khi nhằm đêm Giao thừa, được dân làng k¾o đến động viên úy lạo. Mối quan hệ người hâm mộ - ngôi sao cũng được khai thác kì. Nữ chủ tiệm vàng (NSND Hồng Vân) đòi nằm cạnh k¾p chính (Cao Minh Đạt) khi đoàn đến tá túc ở một ngôi đình, nếu không sÀ rút các khoản tài trợ. Ngôi sao của gánh cũng không đủ sống nên các đào k¾p phải đi làm thêm các nghề như bốc vác hay đánh v¾c-ni đồ gỗ... Có khi còn bị “người hâm mộ” sàm sç hoặc tệ hơn. Nói chung, khán giả nuôi sống nghệ sË đấy nhưng không hiếm khi cũng là nguyên nhân của rắc rối và bất hạnh. Gánh hát chỉ biết trông chờ vào tình thương của khán giả và ưu ái của… tổ nghề, tổ nghiệp - là chỗ dựa cũng như an ủi về mặt tinh thần cho các nghệ sË đang sống. Khi diễn viên hội đủ thực lực, bắt đầu tÏa sáng trên sân khấu, nghËa là đã được tổ nghề nhìn đến. Khi họ làm một điều gì đó không chuẩn mực sÀ bị nhắc nhở tổ nghiệp đang ở trên đầu... Bài vị tổ nghiệp là vật bất ly thân của gánh hát. ĐẦU TIÊN LÀ… ĐẦU TƯ Kinh phí vẫn là yếu tố quyết định để nuôi sống bất cứ một bộ môn nghệ thuật nào, đừng nói đến loại hình đang lâm vào cảnh chợ chiều như cải lương. Tình yêu, tấm lòng với nghệ thuật lớn đến đâu mà không có nhà đầu tư, các diễn viên cũng phải đi về làm bảo vệ, bán v¾ số, may ra còn được hát đám cưới, đám ma… Tình cảnh ngặt nghèo càng làm toát lên đam mê thuần khiết của nghệ sË. Nhiều người hi sinh cả tuổi xuân, cuộc sống riêng tư, trốn nhà để đi theo gánh hát. Một trong những sự tích kể rằng tổ nghề chính là một cậu b¾ trốn trong hòm đồ để đi theo gánh hát để rồi chết ngạt. Phim cũng có một nhân vật tương tự. Vai diễn dù phụ nhưng có thể coi là điểm nhấn do n¾t duyên đặc biệt của Tuấn Dũng. Hơn cả một nghề, sân khấu đối với họ là nghiệp mà ai đã bập vào không muốn dứt ra. Dù hào quang xế chiều của cải lương không còn mang lại cho họ nhiều danh vọng, vật chất. Phim không chọn cách đi sâu vào một số phận nhưng nổi lên là hai mối tình của hai cặp nghệ sË, cách mà mỗi người mỗi thế hệ chọn để vượt qua nghịch cảnh. Trong đó thế hệ tr¿ (cặp Bạch Công Khanh - Trúc Mai) tÏ ra quyết liệt hơn trong việc bảo vệ hạnh phúc. Phim kết thúc có hậu nhưng các nhân vật chính đều phải trải qua không ít bầm giập. Họ vượt qua tất cả chính là nhờ tình yêu với nghề và sự đùm bọc, thấu hiểu dành cho nhau. Gánh hát không chỉ là gia đình thứ hai mà với không ít người - là duy nhất. Gánh hát là nơi hội tụ của nhiều thứ tình cảm: thầy trò, cha con, đồng nghiệp, đôi lứa... qm áp Sáng đ¾n có vÀ hơi đen, bởi đ° phải n¿ Mai trong đợt phim Tết, khi tái chiếu l±i gặp lúc Muôn vị nhân gian đang ở tâm điÆm cÛa truyền thông. Tuy nhiên có vÀ chÊnh đề tài cÛa Sáng đ¾n mới là vấn đề. Người ta chỉ biết phim nói về cải lương vốn Êt được quan tâm, phim về cải lương cÜng chịu chung số ph·n?! Đời hát rong cÜng có những khoảnh khắc l°ng m±n “Đen” như phim Sáng đ¾n… DÎng phim “yêu nưæc” g³n đây nÏng l±i væi trưång hép Đào, phç và piano. S®ng đ¾n cÜng chÊnh là mØt phim khơi géi đưéc lÎng yêu và tã hào væi văn hÏa giàu b¯n sºc cÛa dân tØc đ½t trong nguy cơ luôn bị c®c lo±i hÉnh nghệ thu·t đ±i chÚng nguÔn gÕc phương Tây xâm l´n. Tuy nhiên, S®ng đ¾n đang cÏ nguy cơ b·t khÐi r±p do Êt kh®ch. VỀ NƠI “ĐẤT PHÚ TRỜI YÊN”:
RkJQdWJsaXNoZXIy MjM5MTU3OQ==