Nghị quyết nêu rõ, phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là đột phá quan trọng hàng đầu, là động lực chính để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, hoàn thiện quan hệ sản xuất, đổi mới phương thức quản trị quốc gia, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, ngăn chặn nguy cơ tụt hậu và đưa đất nước phát triển bứt phá trong kỷ nguyên mới. Để thực hiện mục tiêu này cần tăng cường sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, doanh nghiệp và nhân dân. Đây được coi là một cuộc cách mạng toàn diện trên mọi lĩnh vực, đòi hỏi triển khai quyết liệt, đồng bộ, kiên trì với những giải pháp đột phá, lâu dài. Trong đó, người dân và doanh nghiệp là trung tâm, nhà khoa học là nhân tố then chốt, và Nhà nước giữ vai trò dẫn dắt, thúc đẩy, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho sự phát triển. Theo đó, Nghị quyết nêu ra 7 nhiệm vụ, giải pháp lớn, gồm: Nâng cao nhận thức, đột phá về đổi mới tư duy, xác định quyết tâm chính trị mạnh mẽ, quyết liệt lãnh đạo, chỉ đạo, tạo xung lực mới, khí thế mới trong toàn xã hội về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Khẩn trương, quyết liệt hoàn thiện thể chế; xoá bỏ mọi tư tưởng, quan niệm, rào cản đang cản trở sự phát triển; đưa thể chế thành một lợi thế cạnh tranh trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; Tăng cường đầu tư, hoàn thiện hạ tầng cho khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Phát triển, trọng dụng nhân lực chất lượng cao, nhân tài đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Đẩy mạnh chuyển đổi số, ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo trong hoạt động của các cơ quan trong hệ thống chính trị; nâng cao hiệu quả quản trị quốc gia, hiệu lực quản lý nhà nước trên các lĩnh vực, bảo đảm quốc phòng và an ninh; Thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong doanh nghiệp; Tăng cường hợp tác quốc tế trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Đặc biệt, Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số được thành lập do Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng làm Trưởng Ban. Hội đồng Tư vấn quốc gia về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số thành lập với sự tham gia của các chuyên gia trong và ngoài nước. PV.L 5 n Thứ Năm n Ngày 26/12/2024 XÃ HỘI CHUYỆN HÔM NAY Đây chỉ là một trong nhiều khó khăn mà các tổ chức khoa học và công nghệ cũng như nhà khoa học gặp phải trong nghiên cứu khoa học công nghệ suốt thời gian dài. Vai trò của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong phát triển kinh tế xã hội được nhấn mạnh nhiều năm qua, thể hiện mạnh mẽ nhất khi Bộ Chính trị vừa ban hành Nghị quyết số 57 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, trong đó thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương do đồng chí Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng làm Trưởng Ban. Vai trò quan trọng là thế nhưng những năm qua, hoạt động khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo ở Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn, nhất là cơ chế chính sách. Những bất cập trong cơ chế tài chính khiến các nhà khoa học thường xuyên “nói dối”, vật vã với chứng từ, như chia sẻ của TS Nguyễn Quân, nguyên Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, hồ sơ thanh quyết toán nhiều khi còn dày hơn hồ sơ công trình nghiên cứu. Chế độ đãi ngộ, trọng dụng chưa xứng đáng là vấn đề được nhắc đến nhiều năm qua khiến các nhà khoa học vẫn phải vật vã với cơm áo gạo tiền mà không thể toàn tâm toàn ý cho nghiên cứu, đồng thời làm gia tăng tình trạng chảy máu chất xám từ khối công lập sang khối tư nhân, từ trong nước ra quốc tế. Nghiên cứu khoa học là hành trình sáng tạo, đi tìm cái mới, có thể thành công nhưng cũng tiềm ẩn rủi ro, thất bại, đó là thực tế nghiên cứu ở Việt Nam cũng như quốc tế. Cơ chế chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu khoa học đã được nhiều nước thực hiện nhưng tại Việt Nam, cơ chế này còn khá chung chung khiến các nhà khoa học e ngại nhất định. Nhận thức được rõ những khó khăn trên, những năm qua Bộ Khoa học và Công nghệ ra sức tìm cách “cởi trói” bằng các chính sách cởi mở, tiệm cận với thông lệ quốc tế. Điển hình nhất là việc hình thành Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia (Nafosted), trở thành “bệ đỡ” cho nhiều nhà khoa học với cơ chế tài chính thông thoáng. Hay Thông tư liên tịch số 27 quy định khoán chi thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước. Đáng tiếc, những cơ chế thông thoáng của Nafosted không được nhân rộng, trong khi cơ chế khoán chi khó triển khai trong thực tế bởi nhiều rào cản. Muốn cởi trói cho khoa học công nghệ thì vai trò của Bộ Khoa học và Công nghệ hay ngành khoa học công nghệ là chưa đủ, bởi phần lớn quy định liên quan đến hoạt động này bị chi phối bởi nhiều cơ chế, chính sách khác, liên quan đến nhiều bộ, ngành khác. Vì vậy, gỡ nút thắt cho khoa học công nghệ đòi hỏi phải có sự đồng lòng, xuyên suốt từ trung ương đến địa phương, giữa các bộ ngành với nhau. Dự thảo Luật Khoa học và Công nghệ sửa đổi đang được Bộ Khoa học và Công nghệ lấy ý kiến rộng rãi trong nhân dân. Hy vọng, lần sửa đổi này sẽ mang lại những đổi thay căn bản để khoa học và công nghệ thực sự trở thành động lực cho sự cất cánh của đất nước, nhất là trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang bùng nổ. N.H Cởi trói TIẾP THEO TRANG 1 7 nhiệm vụ, giải pháp KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ thảo Luật sẽ hình thành các chương trình hỗ trợ thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ theo chuỗi, bắt đầu từ hỗ trợ các viện nghiên cứu, trường đại học sau khi kết thúc nhiệm vụ nghiên cứu chuyển sang giai đoạn chuẩn bị thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ; hỗ trợ tiền khởi nghiệp và khởi nghiệp sáng tạo; hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa hợp tác với các doanh nghiệp lớn. Luật cũng bổ sung quy định về cơ chế thử nghiệm chính sách để tạo hành lang pháp lý thử nghiệm các công nghệ mới mà pháp luật chưa có quy định hoặc cấp thử nghiệm. Quy định này nhằm phù hợp với thực tế KH&CN trong nước và thế giới đang phát triển quá nhanh, nhất là trong khoảng 5 năm gần đây, đặc biệt là các công nghệ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư như trí tuệ nhân tạo (AI), điện toán đám mây (Cloud computing), công nghệ Internet kết nối vạn vật (IoT), công nghệ thực tại ảo (Virtual reality)... ĐẨY MẠNH THU HÚT NHÂN TÀI KH&CN Khẳng định nhiệm vụ thu hút và trọng dụng nhân tài là trọng tâm của ngành KH&CN, Dự thảo Luật sửa đổi theo hướng mở rộng phạm vi nhân lực, các chính sách ưu đãi đối với từng loại nhân lực. Tăng cường liên kết, trao đổi kinh nghiệm giữa nhân lực trong viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp. Luật cũng đề xuất các chế độ, chính sách thu hút nhà khoa học đầu ngành là người Việt Nam ở nước ngoài, chuyên gia nước ngoài hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ ở Việt Nam trong các ngành, lĩnh vực ưu tiên như công nghệ nền, công nghệ lõi hay công nghệ mới của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Dự thảo Luật xây dựng chính sách lưu chuyển nhân lực trình độ cao từ các viện nghiên cứu, trường đại học sang doanh nghiệp; các chương trình thực tập đối với sinh viên năm cuối, đề tài nghiên cứu sinh và học viên cao học để giải quyết các vấn đề của doanh nghiệp; đào tạo, bồi dưỡng nhân lực quản trị công nghệ trong doanh nghiệp. Quy định doanh nghiệp được cử nhân lực sang làm việc ở viện nghiên cứu, trường đại học để giới thiệu về kết quả nghiên cứu, hỗ trợ doanh nghiệp hoàn thiện kết quả nghiên cứu và tìm hiểu nhu cầu công. Dự luật lần này cũng bổ sung các mục chi như chi học bổng nghiên cứu cho nghiên cứu sau tiến sĩ, kinh phí cho nghiên cứu sinh, học viên cao học tham gia đề tài nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ. Bên cạnh đó, sẽ cập nhật các đối tượng, bổ sung các cơ chế chính sách để huy động nguồn lực ngoài ngân sách nhà nước đầu tư phát triển hạ tầng KH&CN và đổi mới sáng tạo, đồng thời đầu tư phát triển tiềm lực KH&CN, đặc biệt là các phòng thí nghiệm, cơ sở vật chất cho các tổ chức KH&CN công lập. Về nút thắt cơ chế thanh quyết toán cho các đề tài nghiên cứu, Dự thảo Luật hoàn thiện quy định về xây dựng kế hoạch, xây dựng dự toán và quản lý việc sử dụng ngân sách nhà nước cho KH&CN và đổi mới sáng tạo để thuận tiện trong triển khai, phù hợp với tiến độ cấp kinh phí, đồng thời sửa đổi quy định về khoán chi trong hoạt động nghiên cứu và phát triển. NGUYỄN HOÀI định khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là động lực quan trọng để phát triển đất nước. Để thực sự thu hút và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, cần có những cơ chế, chính sách mang tính đột phá và đồng bộ. Trước tiên, về đào tạo nguồn nhân lực, tôi cho rằng, chúng ta cần chú trọng đầu tư vào giáo dục, đặc biệt là các chương trình đào tạo gắn liền với thực tiễn và các xu hướng công nghệ hiện đại như trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, và công nghệ xanh. Các trường đại học và viện nghiên cứu nên được khuyến khích xây dựng các chương trình hợp tác quốc tế, giúp sinh viên, nghiên cứu sinh có cơ hội tiếp cận với những công nghệ tiên tiến và môi trường học thuật chất lượng cao. Đồng thời, cần tăng cường đầu tư các phòng thí nghiệm trọng điểm, nơi các bạn trẻ có thể thực hành và triển khai các ý tưởng sáng tạo. Bên cạnh đó, cần một chính sách đãi ngộ hấp dẫn cả về vật chất lẫn tinh thần để thu hút người tài. Việc xây dựng cơ chế lương thưởng cạnh tranh, hỗ trợ nhà ở, và các phúc lợi xã hội sẽ giúp thu hút và giữ chân nhân tài trong lĩnh vực khoa học, công nghệ. Đặc biệt, cần có những cơ chế mở để thu hút các nhà khoa học Việt Nam đang làm việc ở nước ngoài quay trở về, đồng thời, tạo điều kiện để họ có thể phát huy tối đa năng lực, đóng góp cho đất nước. Để các nhà khoa học thực sự dấn thân cống hiến, cần đảm bảo nguồn kinh phí ổn định và lâu dài cho các dự án nghiên cứu, đặc biệt là nghiên cứu cơ bản và ứng dụng. Cơ chế cấp kinh phí cần linh hoạt, minh bạch, giảm bớt các thủ tục hành chính phức tạp. Ngoài ra, nên khuyến khích hình thành các quỹ nghiên cứu từ khu vực tư nhân; thúc đẩy hợp tác giữa viện, trường và doanh nghiệp để chuyển giao công nghệ vào thực tiễn. Tôi tin rằng, với sự quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và sự đồng lòng của toàn xã hội, những chính sách đột phá, cụ thể, đồng bộ như Nghị quyết 57 sẽ giúp Việt Nam xây dựng được một lực lượng khoa học công nghệ mạnh mẽ, đưa đất nước tiến nhanh và bền vững trong kỷ nguyên mới. LƯU TRINH (ghi) Dự thảo Luật bổ sung các chương trình thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo như hoạt động ứng dụng công nghệ và tiến bộ kỹ thuật, đổi mới công nghệ, sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Thúc đẩy thành lập doanh nghiệp khởi nguồn (Spin-off) từ sáng chế, công nghệ. Bộ Chính trị vừa ban hành Nghị quyết về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia (Nghị quyết 57).
RkJQdWJsaXNoZXIy MjM5MTU3OQ==