và cảm xúc, nên để hiểu một người khó hơn rất nhiều so với một chai rượu hay một ly cocktail. Người ta thường không đến quán bar để nhậu nhẹt bù khú, mà để thưởng thức rượu trong một không gian văn minh nhằm đạt đến cảm xúc mà họ đang mong muốn. Một bartender phải biết cách quan sát và phân tích mọi cử chỉ, hành vi, thái độ của khách hàng để hiểu được nhu cầu của họ. Sau đó, bằng kiến thức, kỹ năng và cảm nhận của mình, bartender mới mang đến một ly cocktail mà khách hàng đang mong chờ. “Không quá khó để thoả mãn vị giác của khách hàng bằng một ly cocktail ngon. Nhưng “pha chế” thế nào để ly cocktail hoà làm một với tâm trạng và cảm xúc của khách hàng - đó mới là tinh hoa của nghề. Khi ấy, bartender đang giúp khách hàng “kết bạn” với rượu”, anh Tiếp chia sẻ. Tuy nhiên, bartender không bao giờ được bỏ quên trách nhiệm của mình với khách hàng. Anh Tiếp kể, vẫn có một số bartender thích chuốc say khách để “dí hoá đơn”. Nhưng ở các quán bar của anh, hành vi này bị cấm. Sứ mệnh của bartender là giúp khách hàng đối thoại và kết bạn với rượu, chứ không phải “giúp” rượu kiểm soát khách hàng để trục lợi. Và sau tất cả, bartender phải có trách nhiệm giữ gìn không gian văn minh nơi họ đang làm việc. “Khi khách hàng có dấu hiệu say, tôi đều khuyên họ nên dừng lại, vì đã say thì không thể thưởng thức được rượu nữa. Vui có chừng, dừng đúng lúc - đây là cách để bartender tôn vinh khách hàng cũng như tôn vinh nghề nghiệp của mình”, anh Tiếp chia sẻ. ƯỚC MƠ ĐƯA RƯỢU NẾP VIỆT VƯƠN TẦM QUỐC TẾ Không phải tự nhiên mà Phạm Tiến Tiếp được đồng nghiệp gọi bằng mỹ từ như “phù thuỷ cocktail”. Anh là người đầu tiên sáng tạo ra những ly cocktail độc quyền mang hương vị ẩm thực truyền thống Việt Nam như cocktail vị phở, vị tào phớ, vị nước chấm ốc, vị cốm, vị ô mai… Trong đó, cocktail vị phở đã nhiều lần lên báo nước ngoài. Với anh, đó không chỉ là lối đi riêng để tạo sự khác biệt, mà còn là mong muốn quảng bá văn hoá ẩm thực Việt Nam qua những ly cocktail. Từ một cậu bé tỉnh lẻ nghèo khó, phải nghỉ học sớm rồi làm đủ mọi nghề để kiếm sống như phụ hồ, đánh giày, nhân viên chạy bàn…, giờ anh Tiếp đã trở thành một mixologist, tạm dịch là nghệ nhân pha chế - cảnh giới mà bartender nào cũng mong muốn đạt tới. Nhưng anh vẫn còn một hoài bão lớn lao. Khi nhắc đến loại rượu đặc trưng của một quốc gia, người ta sẽ nhớ ngay đến whisky của Scotland, vodka của Nga, gin của Hà Lan, sake của Nhật… Nhưng rượu nếp của Việt Nam vẫn còn khá xa lạ với bạn bè quốc tế. Đây là điều mà anh Tiếp và nhiều đồng nghiệp đã trăn trở từ lâu. Họ muốn nâng tầm rượu nếp thành một biểu tượng mà bạn bè năm châu luôn nhớ đến mỗi khi nói về Việt Nam. Giờ đây, sau những chuyến phiêu lưu đáng nhớ với những loại rượu ngoại, họ lại trở về với “quốc tửu”. “Tôi biết con đường này sẽ rất dài và khó khăn. Ở những nước khác, họ mất hàng thế kỷ để làm được điều đó. Nhưng tôi tin rằng mình không cô độc. Tôi có những anh em, bạn bè, đồng nghiệp, đối tác có cùng chí hướng, sẵn sàng đồng hành với tôi. Chưa kể tới thế hệ bartender trẻ và rất tài năng của Việt Nam. Họ sẽ tiếp bước chúng tôi để mang ước mơ này bay cao, bay xa hơn”, anh Tiếp chia sẻ. Hiện anh đang lên kế hoạch hợp tác với một số hãng rượu Việt Nam để sản xuất những chai rượu nếp đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế. Câu chuyện về nghệ nhân pha chế Phạm Tiến Tiếp đã truyền cảm hứng cho rất nhiều bạn trẻ theo đuổi nghề bartender. “Tôi khuyên các bạn trẻ nên nhìn vào những khó khăn, thử thách của nghề trước khi nhìn vào những thứ hào nhoáng. Lương khởi điểm của bartender khá thấp. Và trong thời gian đầu, bạn sẽ phải làm nhiều việc khác như phục vụ bàn, lấy order của khách…, chứ chưa được pha chế ngay đâu! Sáu tháng đầu tiên là giai đoạn “lửa thử vàng”, nếu vượt qua được thì mới có thể bám trụ lại trong nghề”, anh Tiếp chia sẻ. (Còn nữa) V.K 9 n Thứ Bảy n Ngày 9/11/2024 VĂN HÓA - GIẢI TRÍ Theo anh Tiếp, những quán bar Việt Nam đang được các đồng nghiệp trên thế giới công nhận nhiều hơn. Ngày càng nhiều bartender nổi tiếng thế giới đến Việt Nam để giao lưu, chia sẻ kiến thức. Và ngày càng nhiều bartender Việt được góp mặt tại đấu trường quốc tế và được các quán bar nước ngoài mời sang biểu diễn, giảng dạy. Việt Nam đã và đang xuất hiện ngày một rõ rệt hơn trên bản đồ cocktail thế giới. Không gian bên trong của Nê Cocktail Bar – quán bar đầu tiên của anh Phạm Tiến Tiếp Chiếc váy của nhà thiết kế Công Trí từng được ca sĩ Adele diện trong concert quan trọng NTK Hoàng Hải và Hoa hậu Hoàn vũ 2007 Riyo Mori thú nhận, hành trình đưa thời trang Việt ra biển lớn mệt mỏi, căng thẳng chứ không lung linh như hào quang mà khán giả ngưỡng mộ. QUẢNG BÁ BẰNG… TRUYỀN MIỆNG! Liên tục lọt mắt xanh của sao thế giới cũng khiến một số khán giả nghi ngờ sự tỏa sáng thực sự của thời trang Việt. Có người cho rằng: Có thể do trang phục của các nhà thiết kế Việt giá rẻ nên dễ được chọn? Nhà thiết kế Tuyết Lê khẳng định, giá của sản phẩm thiết kế Việt Nam không rẻ: “Riêng thời trang, rẻ mà không đẹp người ta không mặc, cho không người ta cũng không lấy”. Thí dụ, chiếc váy có tên Nữ thần (Goddess) được Phạm Băng Băng mặc trên bìa tạp chí Wonderland (Anh) năm 2020, có giá 80.000 USD. Để hoàn thành sản phẩm thủ công này, Tuyết Lê và ê-kíp mất hơn nửa năm. Diễn viên Lý Hương chia sẻ: “Tôi từng mua đồ hiệu. Nếu so sánh thì thấy sản phẩm của các nhà thiết kế Việt đường nét tinh tế, không thua gì đồ hiệu”. Nhà thiết kế Hoàng Hải tự tin: “Người Việt Nam khéo léo, kỹ lưỡng, giàu ý tưởng thiết kế. Sản phẩm của chúng ta tốt và đẹp, thậm chí có những sản phẩm còn đẹp hơn, sáng tạo và đẳng cấp hơn Trung Quốc. Nhưng ta thua Trung Quốc về nhà đầu tư và sản xuất công nghiệp”. Nhà thiết kế Hoàng Hải cho rằng, thời trang vừa là văn hóa, vừa là tiềm năng kinh tế, nếu chúng ta biết đầu tư và khai thác đúng hướng. Nhưng đầu tư thế nào để khai thác tốt tiềm năng của thời trang Việt và chắp cánh cho nó bay xa hơn? Hoàng Hải mong có những đơn vị, tổ chức quảng bá thời trang Việt chuyên nghiệp để quốc tế biết đến và tìm đến nhiều hơn. Thời trang muốn phát triển rất cần tiềm lực tài chính. Nhà thiết kế Tuyết Lê chia sẻ, những thiết kế của chị ra được biển lớn đều do chị may mắn và có duyên với nghề, bởi chị không có chiến lược quảng bá sản phẩm. Chị tâm sự: “Lâu nay, tôi cứ làm theo cảm hứng. Sản phẩm được người ta biết đến rồi người nọ tự giới thiệu cho người kia, tôi không có chiến lược quảng cáo nào cả”. NÔNG HỒNG DIỆU Để viết cuốn Lịch sử vợ, tác giả đã tìm hiểu, khám phá vai trò của người vợ trong các nền văn hóa khác nhau, tìm hiểu đời sống muôn hình vạn trạng các kiểu vợ trong những cảnh ngộ, trạng thái khác nhau. Từ vợ linh mục đến vợ người đàn ông thế tục. Từ vợ tổng thống đến vợ dân thường, thương nhân và thợ thủ công. Từ vợ da trắng đến vợ da màu, vợ công dân tự do đến vợ nô lệ... qua hàng ngàn năm lịch sử. Trong cuốn sách, tác giả đã chia khảo cứu thành một số thời kỳ như: Thời Hy Lạp, La Mã cổ đại: vợ thường bị xem như tài sản của chồng, phụ thuộc hoàn toàn vào người đàn ông trong gia đình cả về mặt kinh tế lẫn tình cảm. Hôn nhân thường được xây dựng vì mục đích liên minh chính trị giữa các gia tộc hơn là tình yêu. Dẫu thế, ở thời La Mã, tình cảm vợ chồng đã được coi là điều đáng ham muốn và có những cặp vợ chồng huyền thoại đồng sinh đồng tử như Antony và Cleopatra. Thời Trung cổ và Phục hưng: vợ vẫn bị xem là tài sản của chồng. Hôn nhân vẫn mang tính chất liên minh chính trị, nhưng vị thế của người vợ có phần được nâng cao hơn. Đặc biệt, trong thời Trung cổ, diễn ngôn tôn giáo bao trùm đời sống xã hội, ca tụng sự trinh trắng và tìm cách đè nén khiến con người xấu hổ, che giấu khoái lạc trong tình dục song vẫn có những người vợ để lại bằng chứng về khát khao nhục cảm mãnh liệt đối với chồng. Đây cũng chính là thời kỳ ra đời tình yêu lãng mạn kiểu hiệp sĩ gắn với một thể loại văn học được xem là do phụ nữ tạo ra. Thời Cách mạng công nghiệp: người phụ nữ có điều kiện tiếp cận với giáo dục nhiều hơn, địa vị của họ cũng được nâng cao. Phụ nữ nói chung và người vợ nói riêng tham gia thường xuyên hơn vào các diễn ngôn chính trị. Sự bùng nổ của nhiều cuộc cách mạng xã hội trong đó có cả phong trào nữ quyền bắt đầu đặt nghi vấn về quyền bình đẳng giữa vợ và chồng. Phụ nữ bắt đầu yêu cầu quyền ly hôn và tự quyết định cuộc đời. Thế kỷ XX: Hai cuộc Thế chiến đã làm thay đổi rất nhiều khía cạnh trong đời sống lẫn địa vị của phụ nữ và người vợ. Chồng và vợ cùng san sẻ các trách nhiệm và nghĩa vụ trong gia đình, từ việc chăm sóc con cái đến việc kiếm thu nhập nuôi sống gia đình. Vợ trở thành một cá nhân độc lập với sự nghiệp và ước mơ riêng. Bằng vô số khảo cứu hết sức công phu, tác giả chứng minh “vợ” là một phạm trù có tính lịch sử. “Sử tính” của vợ ít nhất gắn với hai điều. Thứ nhất, các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội hình thành nên hoàn cảnh làm vợ, cùng những kiến tạo văn hóa quy định thế nào là vợ tốt/xấu thay đổi theo thời gian, không gian, văn hóa. Không có quy chuẩn duy nhất, bất biến cho điều này. Thứ hai, cách những người vợ nhận thức về bản thân mình và xoay xở trong định chế hôn nhân, gia đình, cũng như tuân phục và thách thức các kỳ vọng, khuôn mẫu ở các thời đại cũng khác nhau. Cuốn Lịch sử vợ do dịch giả Nguyễn Thị Minh chuyển ngữ ra tiếng Việt. Theo dịch giả, Lịch sử vợ tập trung vào hình ảnh vợ trong thế giới phương Tây nhưng rất nhiều điều thú vị trong sách có thể làm dữ liệu cho những so sánh liên văn hóa. Những vấn đề tác giả nói về tầm quan trọng của việc sinh con đối với người phụ nữ mang thân phận làm vợ suốt từ thời cổ đại cho đến hiện đại có thể được hình tượng hóa trong nhiều tác phẩm văn chương Việt Nam. Lịch sử vợ do NXB Phụ Nữ Việt Nam xuất bản và phát hành từ đầu tháng 11/2024. TRỌNG THỊNH Lịch sử... vợ Bìa cuốn Lịch sử vợ “Cuốn sách không chỉ cung cấp một bức tranh toàn diện về sự thay đổi trong vị trí và quyền lợi của phụ nữ, mà còn mở ra các cuộc đối thoại về quyền bình đẳng giới”. Dịch giả NGUYỄN THỊ MINH Nghe như tựa đề của một cuốn sách hài hước, châm biếm nhưng Lịch sử vợ có nội dung nghiêm túc, công trình biên khảo chuyên sâu của Marilyn Yalom - nhà văn kiêm Giám đốc Viện nghiên cứu Giới Clayman (Clayman Institute for Gender Research) thuộc Đại học Stanford (Mỹ). ĐIỂM SÁCH
RkJQdWJsaXNoZXIy MjM5MTU3OQ==