Tiền Phong số 312

9 n Thứ Năm n Ngày 7/11/2024 VĂN HÓA - GIẢI TRÍ lại đi học trung cấp cơ khí rồi làm nghề sửa chữa ô tô. Có bậc cha chú cùng nghề rèn khi biết chuyện đã nói với bố của Phương Hùng: “Thằng bé khi phụ nghề đã có dáng ngồi giống hệt ông, có tư chất của thợ rèn, nay không tiếp nối nghề thật phí”. Nghe vậy, cha của Phương Hùng chỉ biết thở dài. “Nhà tôi có bốn anh em trai, tôi là trai út, nhưng sau này tôi mới biết cha kỳ vọng tôi là người tiếp nối nghề rèn của gia đình hơn cả”, ông Hùng nói. Rồi ông cho biết, khi làm sửa chữa ô tô, thỉnh thoảng ông Hùng vẫn phụ giúp cha làm nghề rèn. Nhiều hôm nhìn cha tuổi đã cao vẫn cần mẫn bên bễ lò rèn, Phương Hùng thấy thương. Trong khi đó, sau khi lập gia đình rồi có con, thu nhập từ nghề sửa chữa ô tô của Phương Hùng đã không đủ để trang trải cuộc sống. Rồi một ngày, người cha nói với Phương Hùng: “Tay nghề con bình thường trong nghề sửa chữa ô tô, đi làm nhiều năm có để dư được gì đâu. Nay tiếp nối nghề rèn đi, con có tư chất nên sẽ giỏi nghề. Nhất nghệ tinh sẽ nhất thân vinh, con ạ”. CẢ PHỐ GIẢI NGHỆ, RIÊNG MÌNH MỘT CÕI Nghe lời cha, năm 1992, khi 32 tuổi, Nguyễn Phương Hùng xin nghỉ việc sửa chữa ô tô để về tiếp quản bễ lò rèn của gia đình. Sẵn trong mình “dòng máu” của một thợ rèn chính hiệu, ông chẳng mất mấy thời gian để tiếp quản nghề lẫn thạo nghề. Nhờ giỏi nghề, làm lại có trách nhiệm, trong khi tại phố Lò Rèn ngày càng nhiều thợ rèn chuyển nghề nên cửa hàng của ông Hùng luôn đông khách... Trò chuyện một lúc, đến giờ làm việc, ông Hùng đi thay quần áo, đốt than nhóm bễ lò rèn. Gẩy than trong lò, ông Hùng nói chỉ cần nhìn ánh lửa là ông biết khi nào nhiệt độ lò đã đạt chuẩn để vào việc. Rồi ông cho hay, vài năm gần đây, khi đã ngoài sáu mươi tuổi, ông chủ yếu làm những mặt hàng tinh, ít đòi hỏi sức lực như rèn lại những mũi đục hoặc làm móc quạt trần. Vừa rèn cái móc quạt trần bằng thép i-nốc, ông Hùng cho biết nếu không thạo nghề khó mà uốn cái móc này cho đẹp và chuẩn “Móc bằng thép i-nốc này tôi bán 70-80 ngàn đồng một chiếc, trong khi cũng cái móc quạt trần làm bằng thép gai trông thô hơn giá chỉ 10 ngàn đồng”, ông Hùng nói. Vẫn tiếp chuyện tôi, ông Hùng với tay lấy cái kẹp chuyên dụng gắp một chiếc đục cũ, mũi đã bị tù và đặt vào bễ than đỏ rực để nung. Nung đủ thời gian, ông gắp cái đục ra, đặt lên đe và bắt đầu dùng búa đập. Dưới lực đập của búa, tàn lửa bắn ra tung tóe, chẳng mấy chốc mũi đục trở nên sắc nhọn. Sau đó, chiếc đục được đưa lại bếp lò nung lần nữa rồi cho vào dầu để tôi cho rắn, khi hoàn thành trông như mới. “Những chiếc đục dùng để phá bê tông này là hàng Trung Quốc, giá khoảng 75 ngàn đồng một chiếc. Tôi không rõ đục này có được tôi hay không nhưng thép rất yếu, chỉ dùng ít lâu lại bị mòn mũi nên thợ mang đến đây để tôi sửa lại, lấy công 13 ngàn đồng một chiếc. Có những người thợ nghe tôi khuyên, khi mua đục mới đã mang đến đây để cho vào lò tôi trước, sau đó khi dùng thấy bền hơn hẳn. Làm thế này, tôi lấy công 5 ngàn đồng một chiếc thôi”, ông Hùng nói. Nói chuyện và xem ông Hùng làm đến gần trưa, cũng là lúc ông tạm nghỉ tay. Ông Hùng cho biết, ông có người con trai nhưng không tiếp nối nghề của bố. “Thực ra mỗi người đều có quyền chọn một nghề cho mình, nếu nghề được lựa chọn mà họ càng giỏi thì càng tốt. Nhất nghệ tinh sẽ nhất thân vinh. Nghề rèn đã mang lại cuộc sống tốt cho tôi, nên tôi sẽ làm đến khi nào sức lực không cho phép nữa mới thôi”, ông Hùng chia sẻ. (Còn nữa) K.N Móc quạt trần bằng thép i-nốc và thép gai do ông Hùng làm Những chiếc đục được ông Hùng làm xong ẢNH: KIẾN NGHĨA “Nhiều năm qua, có không ít du khách nước ngoài khi qua đây đã dừng lại xem và chụp ảnh tôi làm nghề rèn. Chắc họ ngạc nhiên bởi thời đại công nghệ 4.0 này, ở Việt Nam vẫn có ông thợ rèn cần mẫn làm nghề thủ công giữa phố thị sầm uất của Thủ đô. Còn tôi thì nghĩ rằng, thời nào cũng vậy, nếu mình giỏi nghề và sống được với nghề thì đó là điều cũng đáng để tự hào”. Ông NGUYỄN PHƯƠNG HÙNG Đìu hiu ứng viên các ngành khoa học cơ bản Sư phạm nói riêng và các trường ĐH trên cả nước nói chung nhận được sự quan tâm lớn của các thí sinh và điểm chuẩn đầu vào thuộc top cao nhất nước. Đội ngũ học viên sau ĐH, làm nghiên cứu sinh không ít. “Nếu xét về góc độ thế hệ kế cận, ngành Văn học không gặp khó khăn, trở ngại. Nhưng vì sao không có ứng viên đăng kí xét công nhận chức danh GS, PGS? Là người trong ngành và trong Hội đồng GS ngành, chúng tôi nhận thấy có nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan”, ông nói. Ông Bắc phân tích, khoảng 6 năm gần đây, Hội đồng GS ngành Văn học nhận thấy có sự “đứt gãy” số lượng ứng viên tham gia xét công nhận chức danh GS, PGS. Nguyên nhân là do, giai đoạn này có sự chuyển tiếp trong quy định tiêu chuẩn của Thủ tướng Chính phủ, chuyển từ Quyết định 174 (trước 2008-2018) sang Quyết định 37 (từ 2019 đến nay). Trong đó, tiêu chuẩn quan trọng là số lượng bài báo quốc tế đối với các ứng viên. Ông dự đoán, khoảng 2 năm tới, số lượng ứng viên ngành Văn học đăng kí xét công nhận chức danh GS, PGS sẽ tăng lên đáng kể. Nguyên nhân khác chính là do sự bất cập trong chính sách đãi ngộ của Nhà nước. Ông Bắc nêu ví dụ, khi được bổ nhiệm chức danh GS, mức lương khởi điểm không khác với bổ nhiệm chức danh PGS (6.2). Trong khi đó, để được công nhận là GS, các PGS phải mất thời gian phấn đấu ít nhất là 5-7 năm, thậm chí 10 năm. Mặt khác, sau khi đạt tiến sĩ, giảng viên sẽ được công nhận giảng viên chính sau vài năm nếu đủ một số điều kiện, khoảng sau 5-7 năm, họ sẽ được công nhận giảng viên cao cấp, mức lương cũng là 6.2 mà không cần bài quốc tế theo kiểu xét công nhận chức danh GS. Như vậy, nếu chỉ vì vấn đề thu nhập, giảng viên sẽ chọn con đường dễ đi, ngắn hơn để phấn đấu. Từ những thực tế trên, GS Lê Huy Bắc đề xuất, cần sửa một số chính sách như điều chỉnh lại quy định lương khởi điểm có sự khác biệt khi ứng viên được bổ nhiệm GS, PGS. Các cơ sở đào tạo cần có cơ chế động viên, khuyến khích, tạo động lực để giảng viên tham gia xét công nhận chức danh GS, PGS. Nhà giáo Nguyễn Hùng Vỹ, Khoa Ngữ Văn, Trường ĐH KHXH&NV, ĐH Quốc gia Hà Nội khẳng định, thế hệ trẻ hiện nay rất giỏi, làm nghiên cứu khoa học hay giảng dạy đều rất tốt. Việc xét công nhận chức danh đều dựa trên các tiêu chí nên ông Vỹ dự đoán, có thể do các thầy cô chưa thấy xứng đáng nên chưa làm hồ sơ. “Tôi không lo về chuyện đứt gãy thế hệ. Tôi cho rằng, điều quan trọng là thế hệ trước biết giúp đỡ, trân trọng thế hệ sau, chỉ ra được điểm mạnh điểm hạn chế của họ để làm cho dòng chảy ngành Văn học tiếp tục phát triển”, ông Vỹ nêu quan điểm. Ông cho rằng, phải có được sự tin tưởng đối với thế hệ sau để họ yên tâm cống hiến. Ngành Văn học chỉ tạm thời chững lại một chút để tiếp tục phát triển. “Theo tôi, vấn đề là góc nhìn, hành động. Những người trẻ hiện nay có nhiều công cụ để thích ứng hơn như công nghệ thông tin, ngoại ngữ. Họ vượt trội, hòa nhập nhanh hơn thế hệ chúng tôi. Thế hệ trước cũng phải nhìn thấy kinh nghiệm của mình đã lạc hậu. Trong quan hệ khoa học vừa chuyển giao vừa học tập thế hệ khác. Những gì đã thành lối mòn thì phải thay đổi. Không phải sống lâu lên lão làng. Thế hệ chúng tôi ngày xưa chỉ có một lối mòn đi dần quen chân nên tưởng đó là đại lộ nhưng thực chất không phải. Cần tạo sự tin tưởng và cơ hội cho người trẻ”, ông Vỹ nói. NGHIÊM HUÊ - HỒNG DIỆU Hội đồng Giáo sư Nhà nước chịu trách nhiệm xét công nhận chức danh GS, PGS hằng năm. (Trong ảnh: Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Kim Sơn) Người làm văn… tự làm khó mình Ngoài áp lực công bố quốc tế, GS.TS Trần Ngọc Vương chỉ ra những áp lực khác: Có người miệt mài nghiên cứu lại thiếu giờ dạy. Có người bận dạy quá lại thiếu công trình nghiên cứu. PGS.TS Ngô Văn Giá nói: “Tôi biết có những người không ưa Hội đồng nên không làm hồ sơ ứng viên GS, PGS. Như bạn tôi, nhà giáo, nhà phê bình Chu Văn Sơn kiên quyết không làm hồ sơ ứng viên vì lấn cấn về Hội đồng. Anh đã ra đi vài năm nay. Người theo ngành Văn có sự kiêu hãnh, có khi gàn dở!”. NÔNG HỒNG DIỆU Từ thực tế mấy mùa xét công nhận GS, PGS gần đây, những ngành học cơ bản như Lịch sử, Triết, Mỏ địa chất, Văn học… thường có số lượng ứng viên rất ít. Năm 2023, các Hội đồng GS ngành không có ứng viên GS gồm: ngành Dược học, Giáo dục học, liên ngành Sử học - Khảo cổ học - Dân tộc học, Ngôn ngữ học, liên ngành Triết học - Xã hội học - Chính trị học, ngành Văn học. Năm nay, những ngành “trắng” ứng viên GS gồm: Khoa học An ninh, Ngôn ngữ học, liên ngành Văn hóa - Nghệ thuật - Thể dục Thể thao. Một vị PGS ngành Địa lí Tự nhiên (trong liên ngành Khoa học trái đất - Mỏ địa chất) lo lắng về tình trạng đứt gãy thế hệ kế cận ở các nhóm ngành khoa học cơ bản. Hiện nay, nguồn tuyển sinh từ ĐH đã rất khó khăn, không có người học. Ví dụ, ngành Địa lí Tự nhiên ở Trường ĐH Khoa học Tự nhiên, ĐH Quốc gia Hà Nội (là cơ sở duy nhất trên toàn quốc đào tạo ngành học này) cũng chỉ tuyển sinh 1 lớp, khoảng 30 sinh viên mỗi năm, có năm tuyển đủ, có năm không. Nếu bắt các trường tự bơi để tuyển sinh, họ sẽ không mặn mà, thậm chí sẽ tìm cách dừng đào tạo. Vì vậy, vị PGS này đề nghị Nhà nước phải có chính sách đầu tư trọng điểm bằng những đề án Chính phủ. Nhà nước phải nuôi những ngành đào tạo tinh hoa và khoa học cơ bản. Ở các nước phát triển cũng thế. GS.TSKH Vũ Hoàng Linh, Hiệu trưởng Trường ĐH Khoa học Tự nhiên, ĐH Quốc gia Hà Nội nhìn nhận, trong thời điểm hiện tại, đội ngũ cán bộ giảng viên của những ngành khoa học cơ bản, khoa học đặc thù như Địa lí tự nhiên, Khoa học sự sống vẫn đáp ứng yêu cầu và có chất lượng. Năm nay, ngành Địa lí của trường có thêm một số PGS vừa được Hội đồng GS Nhà nước công nhận. Tuy nhiên, ông Linh lo lắng câu chuyện nhân lực trong khoảng thời gian 10 năm tới, khi đội ngũ hiện nay chuẩn bị nghỉ hưu. Sở dĩ những ngành này đến nay vẫn có được các thầy cô giỏi vì trước đây, trường có lớp cử nhân tài năng đón nhận những sinh viên giỏi bị “cưỡng chế” vào học (do trượt những lớp như Toán, Lí, Hóa). Song hiện nay, thí sinh được tự do lựa chọn ngành, vì thế những học sinh giỏi không lựa chọn những ngành khoa học cơ bản, nên điểm chuẩn đầu vào không cao. Điều này sẽ ảnh hưởng đến đội ngũ nhân lực giảng dạy sau này. NGHIÊM HUÊ

RkJQdWJsaXNoZXIy MjM5MTU3OQ==