8 VĂN HÓA - GIẢI TRÍ n Thứ Năm n Ngày 7/11/2024 KÝ ỨC “NGHỆ TINH” Một sáng mùa thu, tôi đến phố Lò Rèn (Hà Nội) gặp ông Nguyễn Phương Hùng. Ông Hùng đang ngồi uống trà một mình bên chiếc bàn nhỏ kê trước cửa hàng. Nghe tôi đặt vấn đề muốn viết về người “nhất nghệ tinh” như ông, chủ nhân cười khà, giọng khoát hoạt: “Cũng nhờ hưởng chút gen từ các cụ lẫn chịu khó làm công việc này vài chục năm qua, có thể nói tôi cũng là người thạo nghề”. Trước khi nói về bản thân, ông Hùng kể về ông nội và cha mình, những người cả đời gắn bó với nghề rèn. Từ đầu thế kỷ trước, ông nội của ông Hùng từ làng rèn Hòe Thị, xã Xuân Phương, huyện Từ Liêm (nay là phường Phương Canh, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội) ra lập nghiệp trên phố Lò Rèn của đất Kinh kỳ. Hồi đó nghề rèn phát triển, các bễ lò rèn tập trung trên một con phố nhỏ của Hà Nội luôn đỏ lửa. Sau đó, con phố của những bễ lò rèn này đã mang tên Lò Rèn. “Khi ông nội tôi già yếu, bễ lò rèn của gia đình truyền lại cho bố tôi”, ông Hùng nói. Rồi ông kể, ngày ấy khi còn nhỏ, sau khi học xong là ông lại quanh quẩn bên bễ lò rèn của gia đình để phụ giúp cha nhặt than, nhóm bễ. Một lần, lúc rỗi việc, Phương Hùng lỡ ngồi lên chiếc đe liền bị cha kéo đứng dậy phát cho mấy cái vào mông, rồi dạy: “Người làm nghề phải biết trân quý dụng cụ hành nghề thì mới giữ được nghề”. Ông Hùng cho biết, nghề thợ rèn không đơn thuần chỉ cần sức khỏe để “quai búa vào đe” mà rất cần sự khéo léo lẫn kinh nghiệm làm nghề. Trong ký ức, ông Hùng nhớ cha mình là người giỏi nghề, làm ra những sản phẩm vừa đẹp vừa chất lượng. Đơn cử như rèn một con dao, bố của ông đã tôi thép để rèn những con dao vừa sắc vừa bền, dùng rất lâu mới phải mài. “Ngày ấy, không chỉ bố tôi, mà nhiều người trên phố Lò Rèn này rất thạo nghề. Tại đây, có lần một số thợ lành nghề rèn những con dao rồi mang ra thi chặt thanh sắt “phi 6”. Khi thanh sắt bị chặt đứt, vết cắt của ai “ngọt” hơn, không một vết gợn trên bề mặt của vết cắt sẽ thắng cuộc. Phần thưởng cho người thắng cuộc là cốc bia, đĩa lạc, nhưng là niềm vui của những người trong nghề với nhau”, ông Hùng cho biết. Có thực tế lẫn ký ức với nghề rèn là thế, nhưng đến khi trưởng thành, Nguyễn Phương Hùng Cả phố Lò Rèn trong phố cổ Hà Nội giải nghệ, chỉ mỗi ông làm nghề. Một mình “bao sân”, lại giỏi nghề nên khách nườm nượp. Ông nói: “Nhờ tinh thông nghề, tôi đã xây được nhà, nuôi các con ăn học và trưởng thành”. Ông Nguyễn Phương Hùng đang nung những chiếc đục trong lò ẢNH: KIẾN NGHĨA NHẤT NGHỆ TINH, NHẤT THÂN VINH Bài 4: Thợ rèn cuối cùng ở phố cổ Hà Nội ÁP LỰC GS.TS Trần Ngọc Vương, chuyên gia hàng đầu về văn học trung đại Việt Nam không bất ngờ khi ngành Văn học không có ứng viên đạt tiêu chuẩn GS, PGS năm 2024. Ông phân tích: “Có những tiêu chuẩn khó với ngành Văn. Thí dụ, phải có 3 bài công bố quốc tế, mà tạp chí quốc tế uy tín dành đất cho khoa học xã hội chỉ vài phần trăm, trong vài phần trăm ấy, đất dành cho ngành Văn lại ít nhất. Cho nên, công bố quốc tế trở thành áp lực”. PGS.TS Ngô Văn Giá kể trường hợp ông bị “trượt” PGS năm 2005 (trước năm 2008, Nhà nước thực hiện phong hàm GS, PGS -PV). Tới lần 2, năm 2006 ông mới “đỗ”. “Nhưng hồi đó chưa có tiêu chí công bố quốc tế”, thầy giáo giảng dạy nhiều thế hệ học trò theo nghiệp sáng tác văn chương nói. PGS.TS Ngô Văn Giá còn là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Ông đánh giá: “Văn chương Việt Nam phải nhìn nhận thực tế là uy tín và độ lan tỏa với thế giới còn rất khiêm tốn. Cho nên đăng bài nghiên cứu văn học Việt ở tạp chí quốc tế uy tín là thách thức lớn”. Vì áp lực công bố quốc tế nên có những giảng viên “thoát” giấc mơ học hàm GS, PGS. Đó là trường hợp của TS Trần Thị Bích Phượng, đang giảng dạy ở Trường Đại học (ĐH) Thăng Long. Bà trải lòng: “Công bố quốc tế phải viết bằng tiếng Anh. Ngoại ngữ của tôi lại là tiếng Hàn. Tôi làm tiến sĩ ở ĐH Seoul, Hàn Quốc. Ở Hàn Quốc, tôi đăng tải trên tạp chí nghiên cứu văn học cổ điển Hàn Quốc nhưng lại không được công nhận ở Việt Nam”. TS Trần Thị Bích Phượng nói rằng, ngành nghiên cứu văn học Hàn Quốc ở ta hiện nay chưa có PGS, đừng nói GS. Nếu không chắc tiếng Anh, có thể thuê dịch hay không? GS.TS Trần Ngọc Vương đáp: “Thuê cũng có thể, nhưng về mặt nguyên tắc, đã công bố quốc tế, anh phải tự viết bằng tiếng Anh. Một người làm văn học mà viết được một bài bằng tiếng Anh là một điều cực kỳ khó khăn. Dù người ta ngầm công nhận anh có thể thuê, nhưng những người có tự ái và chính trực thì cảm thấy đó là sự nhục nhã. Người làm văn lại hay tự ái”. Ngay cả việc thuê dịch một bài nghiên cứu văn học bằng tiếng Việt sang tiếng Anh để công bố quốc tế cũng không đơn giản. Vị PGS.TS giấu tên của ngành Hán Nôm nói: “Kể cả thuê dịch thì chủ nhân của nó phải biên tập lại. Người dịch chỉ giúp đỡ tốn thời gian chuyển ngữ, song văn phong khoa học rồi thuật ngữ khoa học mình phải làm chủ. Trong trường hợp bài của tôi, sau tất cả việc dịch thuật, chỉnh văn phong, thuật ngữ, tôi tiếp tục chuyển bài cho anh em, bạn bè của tôi là người bản ngữ tiếng Anh, lại cùng chuyên môn với tôi, để họ sửa thêm lần nữa, mới yên tâm đăng được. Một quá trình phức tạp và không phải ai cũng có điều kiện để làm”. GS.TS Trần Ngọc Vương kết luận: “Bài công bố quốc tế là vấn nạn của ứng viên ngành Văn. Năm nay không có ứng viên, những năm trước ứng viên đạt tiêu chuẩn cũng chỉ lác đác vài người”. THIẾU ĐỘNG LỰC GS. TS Lê Huy Bắc, Trưởng khoa Việt Nam học, Trường ĐH Sư phạm Hà Nội, Thư kí Hội đồng GS ngành Văn học chia sẻ, ngành này thực tế không thiếu ứng viên là các tiến sĩ giỏi. Thời gian qua, ngành Văn học tại Trường ĐH Văn học là ngành duy nhất không có ứng viên đăng kí xét công nhận chức danh Giáo sư (GS), Phó giáo sư (PGS) năm 2024. Ngoài ra, những năm gần đây, một số ngành khoa học cơ bản, khoa học tinh hoa cũng xảy ra tình trạng “trắng” ứng viên xét chức danh GS. NGÀNH VĂN “TRẮNG” ỨNG VIÊN GS, PGS: Rào cản công bố quốc tế Các ngành khoa học cơ bản hiện đang lo lắng thiếu hụt đội ngũ GS, PGS trong tương lai (Ảnh minh họa) Chế độ đãi ngộ bất hợp lí đang không tạo động lực để các nhà khoa học phấn đấu đạt chức danh GS, PGS ẢNH: NGHIÊM HUÊ nKIẾN NGHĨA KÝ SỰ
RkJQdWJsaXNoZXIy MjM5MTU3OQ==