Tiền Phong số 271

14 n Thứ Sáu n Ngày 27/9/2024 Đời sống - Xã hội XÃ HỘI Ngày 25/9, ông Võ Anh Tuấn - Chánh văn phòng UBND tỉnh Bình Dương cho biết, tới đây địa phương sẽ có khu công nghiệp xanh theo quy hoạch của tỉnh do Tổng công ty Becamex IDC làm chủ đầu tư. Khu công nghiệp này được HĐND tỉnh Bình Dương thông qua đồ án quy hoạch phân khu xây dựng tỷ lệ 1/2.000 vào tháng 11/2023. Khu này rộng 700 ha, quy mô lao động 35.000 người và tổng vốn đầu tư 5.459 tỷ đồng. Ông Giang Quốc Dũng, Phó tổng giám đốc Tổng công ty Becamex IDC cho biết thêm, hiện các thủ tục pháp lý của Khu công nghiệp Cây Trường đã hoàn tất. Khi vào hoạt động, khu công nghiệp này được định hình là nơi tập trung các doanh nghiệp đa ngành, trong đó ưu tiên sản xuất xanh, đổi mới sáng tạo và sinh thái gắn với bảo vệ môi trường. Theo UBND tỉnh Bình Dương, tỉnh sẽ có thêm 10 khu công nghiệp mới đến năm 2030. Trong số này, hai khu tại huyện Bắc Tân Uyên và TP Tân Uyên sẽ được đầu tư trong hai năm tới, tổng diện tích 1.000 ha. 8 khu còn lại bố trí tại các huyện Bắc Tân Uyên, Dầu Tiếng và Phú Giáo, diện tích trên 6.000 ha. Theo quy hoạch tỉnh Bình Dương đến 2030, tầm nhìn đến năm 2050, phát triển các khu công nghiệp mới là tiền đề quan trọng để địa phương này thu hút ngành nghề công nghệ cao. Đến nay các khu công nghiệp tại Bình Dương đã thu hút trên 3.130 dự án, trong đó dự án FDI chiếm gần 80%, với tổng vốn đăng ký 29,7 tỷ USD. 682 dự án đầu tư trong nước gần 95.000 tỷ đồng (khoảng 3,8 tỷ USD). ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN TỪNG KHU VỰC THEO ĐẶC THÙ Theo mục tiêu phát triển tổng quát đến năm 2030, Bình Dương sẽ trở thành thành phố trực thuộc Trung ương; là một trong những trung tâm phát triển năng động, toàn diện của khu vực Đông Nam Á; dẫn đầu về khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, trung tâm công nghiệp dịch vụ hiện đại; hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và hệ thống đô thị phát triển đồng bộ, hiện đại, thông minh, bền vững theo mô hình tăng trưởng xanh, thích ứng với biến đổi khí hậu, môi trường sinh thái được bảo vệ; nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân, xây dựng xã hội phồn vinh, văn minh hiện đại; bảo đảm quốc phòng - an ninh và trật tự an toàn xã hội. Mục tiêu cụ thể về kinh tế, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân thời kỳ 2021-2030 đạt khoảng 10%/năm, GRDP bình quân đầu người năm 2030 đạt khoảng 15.800 USD. Dân số đến năm 2030 đạt 4,04 triệu người (trong đó dân số chính thức 3,48 triệu người; dân số quy đổi 0,56 triệu người). Đồng thời, phương án quy hoạch hệ thống đô thị đến năm 2030, Bình Dương sẽ có 3 đô thị đạt tiêu chí đô thị loại I (Thủ Dầu Một, Dĩ An và Thuận An); 2 đô thị đạt tiêu chí đô thị loại II (Tân Uyên, Bến Cát); 1 đô thị đạt tiêu chí thị xã - đô thị loại IV (huyện Bàu Bàng); 3 đô thị đạt tiêu chí đô thị loại IV (thị trấn Tân Thành - huyện Bắc Tân Uyên; thị trấn Phước Vĩnh - huyện Phú Giáo; thị trấn Dầu Tiếng - huyện Dầu Tiếng); thành lập mới một số đô thị thuộc huyện Bắc Tân Uyên, Phú Giáo và Dầu Tiếng, tỷ lệ đô thị hóa đạt khoảng 88-90%. Phát triển không gian đô thị Bình Dương gắn với vùng đô thị trung tâm TPHCM theo mô hình vùng đô thị với khung cơ sở hạ tầng đồng bộ, hiện đại, cụ thể: Khu vực phía Nam gồm: Dĩ An - Thuận An chuyển đổi thành các trung tâm dịch vụ cấp vùng về thương mại và dịch vụ logistics; khu vực Thủ Dầu Một phát triển hoàn thiện thành trung tâm dịch vụ hỗ trợ và đổi mới sáng tạo; khu vực Bến Cát - Tân Uyên phát triển hoàn thiện mô hình đô thị công nghiệp - dịch vụ hiện đại. Khu vực phía Bắc (Dầu Tiếng, Bàu Bàng, Phú Giáo, Bắc Tân Uyên) phát triển theo mô hình đô thị công nghiệp sinh thái có hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, mạng lưới dịch vụ hoàn thiện, hấp dẫn đầu tư, thu hút lực lượng lao động, đảm bảo môi trường xanh, sạch, đẹp. "Quy hoạch lần này của Bình Dương sẽ giải quyết triệt để những tồn tại của quy hoạch trước đây. Khi quy hoạch đã được duyệt, các đơn vị, địa phương bám sát, căn cứ vào đó để thực hiện mà không cần phải mất thời gian hỏi ý kiến của các đơn vị liên quan"- ông Phạm Trọng Nhân, Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Bình Dương cho biết. HƯƠNG CHI Bình Dương phát triển bền vững theo mô hình tăng trưởng xanh Trong giai đoạn mới, Bình Dương định hướng là một trong những trung tâm phát triển năng động, toàn diện của khu vực Đông Nam Á; dẫn đầu về khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo; phát triển bền vững theo mô hình tăng trưởng xanh. Sản xuất trong nhà máy ở Bình Dương ẢNH: H.C DOANH NGHIỆP ĐỐI MẶT NHIỀU THÁCH THỨC Chia sẻ tại Hội nghị quốc gia về sản xuất và tiêu dùng bền vững năm 2024 được Bộ Công Thương tổ chức vào ngày 19/9 vừa qua tại Đà Nẵng, ông Nguyễn Đức Trị, Phó Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS) cho biết, các nước đang ngày càng yêu cầu khắt khe hơn đối với các sản phẩm dệt may. Theo đó, sản phẩm dệt may phải đáp ứng các tiêu chuẩn liên quan đến phát thải carbon, sử dụng hóa chất an toàn và nguồn gốc nguyên liệu tái chế. Những quy định mới này buộc các doanh nghiệp trong nước phải chuyển dịch sang các quy trình sản xuất sạch hơn như sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, nguyên liệu tái chế và giảm thiểu chất thải trong sản xuất. Để thích ứng, nhiều doanh nghiệp dệt may đã đầu tư đi vào thị trường ngách thông qua sản xuất các loại vải tái chế từ nhựa PET, vải cotton tái chế, hay sợi bền vững như sợi tre, sợi từ vỏ cây. Việc chuyển hướng sang sản xuất tiêu dùng bền vững thúc đẩy kinh tế tuần hoàn khiến doanh nghiệp gặp không ít khó khăn do phải thay đổi từ công nghệ, quy trình sản xuất. Chi phí để chuyển đổi sản xuất đang là gánh nặng cho không ít doanh nghiệp dệt may Việt Nam, đặc biệt là những doanh nghiệp nhỏ và vừa. Theo ông Trị, để chuyển đổi sang sản xuất tiêu dùng bền vững thúc đẩy kinh tế tuần hoàn, doanh nghiệp cần đầu tư rất lớn vào công nghệ, hệ thống xử lý nước thải, tiết kiệm năng lượng và sử dụng nguyên liệu tái chế... Cùng với chuyển đổi, chi phí sản xuất cũng tăng rất mạnh do các loại vải tái chế, bông hữu cơ và các chất liệu không gây ô nhiễm thường có giá thành cao hơn so với các nguyên liệu truyền thống và nguồn cung còn khan hiếm. Các chi phí, xử lý các vấn đề quản lý chất thải và chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp dệt may cũng là những thách thức không hề nhỏ với doanh nghiệp trong quá trình “xanh hóa” sản xuất. “Một số doanh nghiệp chỉ xem sản xuất xanh, kinh tế tuần hoàn là một hình thức đối phó với các yêu cầu quốc tế thay vì coi đó là chiến lược dài hạn. Việc thiếu các kỹ năng quản lý chuỗi cung ứng bền vững cũng là một trở ngại lớn với doanh nghiệp”, ông Trị cho hay. Bên cạnh các tiêu chuẩn về “xanh hoá”, theo các doanh nghiệp, khó khăn lớn nhất lúc này chính là chiến lược phát triển và chi phí để chuyển đổi quy trình sản xuất, vận hành chuỗi cung ứng. Thực tế cho thấy, hiện chưa có một tiêu chuẩn toàn cầu đồng nhất về sản xuất bền vững áp dụng chung cho ngành dệt may, dẫn đến khó khăn trong việc đánh giá và đảm bảo tính bền vững của các chuỗi cung ứng và sản phẩm. Bên cạnh việc chuyển đổi sản xuất, theo đại diện Hiệp hội Dệt may Việt Nam, các doanh nghiệp cần đầu tư phát triển và mở rộng nguồn nguyên liệu dệt may nội địa như sợi tái chế và các loại vải thân thiện với môi trường. Việc phát triển các nguồn nguyên liệu này sẽ giúp giảm bớt sự phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu, đồng thời đáp ứng các yêu cầu khắt khe về sản phẩm bền vững của thị trường quốc tế. Các doanh nghiệp dệt may cũng có thêm nhiều cơ hội để tiếp cận thị trường lớn và bền vững hơn như EU, Mỹ, Nhật Bản. PHẢI BIẾT NẮM BẮT CƠ HỘI Theo Phó Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam, bên cạnh các khó khăn, những quy định về phát triển xanh, yêu cầu sản xuất sạch, kinh tế tuần hoàn cũng là cơ hội để giúp các doanh nghiệp dệt may nâng cao giá trị thương hiệu và sức cạnh tranh trên thị trường. “Với các doanh nghiệp chủ động và nghiêm túc chuyển đổi sang kinh tế tuần hoàn thì sản xuất và tiêu dùng bền vững đã tạo ra sự khác biệt cho doanh nghiệp mình trên thị trường, từ đó nâng cao giá trị thương hiệu doanh nghiệp, gia tăng lợi nhuận”, ông Trị nói. Theo tổng giám đốc một doanh nghiệp dệt may lớn, việc chuyển đổi sản xuất xanh, thực hiện kinh tế tuần hoàn còn là cơ hội thúc đẩy đổi mới và sáng tạo, doanh nghiệp có thể tận dụng các cơ hội để sáng tạo ra các sản phẩm mới thân thiện với môi trường. Tuy nhiên, việc này đòi hỏi sự quyết tâm, nỗ lực từ chính các lãnh đạo cao nhất của doanh nghiệp và sự hỗ trợ từ Chính phủ, các bộ ngành và địa phương trong việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và đào tạo lao động, hỗ trợ tư vấn về khoa học công nghệ, chuyển giao công nghệ sản xuất xanh, sản xuất tuần hoàn, có mức vay ưu đãi nhằm hỗ trợ doanh nghiệp thúc đẩy nhanh quá trình chuyển đổi. NGUYỄN BẰNG Bên cạnh những thách thức trong việc tuân thủ các quy định về sản xuất xanh, kinh tế tuần hoàn, các doanh nghiệp dệt may trong nước cũng đang có những cơ hội rất lớn trong việc tiến sâu hơn vào các thị trường tỷ USD nếu có xuất xứ hàng hóa, bảo vệ môi trường. Theo Chiến lược phát triển ngành dệt may và da giày Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2035, ngành dệt may Việt Nam phát triển bền vững theo mô hình kinh tế tuần hoàn. Chính phủ sẽ có các chương trình hỗ trợ về vốn vay ưu đãi, chính sách ưu đãi thuế cho các dự án sản xuất xanh và các chương trình đào tạo giúp doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận hơn với công nghệ và giải pháp bền vững. Dệt may có cơ hội từ sản xuất xanh, kinh tế tuần hoàn Nhiều thách thức với doanh nghiệp khi chuyển sang sản xuất xanh ẢNH: NGUYỄN BẰNG CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ

RkJQdWJsaXNoZXIy MjM5MTU3OQ==