Tiền Phong số 270

9 n Thứ Năm n Ngày 26/9/2024 VĂN HÓA - GIẢI TRÍ ngàn”, được ông khắc họa rõ nét, bố cục chuyển động đa dạng với những kích thước khác nhau thể hiện một Tây Nguyên huyền bí nhưng có sự kế thừa. Trong tranh hiện lên là tượng mồ, nổi trội văn hoá cồng chiêng, những người phụ nữ bụng mang dạ chửa thông điệp sinh sôi trong đó. Phía góc phải bức tranh là hình vuông, tròn, hàm ý mẹ tròn con vuông. Bàn chân trần, như những bước chân đại ngàn, dày dạn nắng gió của các bậc già làng; cầu thang đặc trưng của chế độ mẫu hệ. Trong thư viện tranh đầy màu sắc, tranh Ngô Tiến Sỹ không thấy dùng màu tương phản mạnh. Bút lực của ông dồi dào nhưng nhẹ nhàng, cuốn hút ngay từ những cái nhìn đầu tiên vì nó rất đỗi gần gũi. Một không gian huyền bí qua tác phẩm “Thăm nhà mồ”, nhiều chất mới lạ được tạo ra trong không gian sâu thẳm của tranh. Bức này, ông vẽ năm 2012, lần đi thực tế ở những ngôi nhà mồ. Qua bức tranh, nét văn hoá đặc trưng của người dân tộc bản địa hiện ra. Họ quan niệm chết không phải là hết, khi một người chết, sau 3 năm sẽ làm lễ bỏ mả, thời gian chờ làm lễ, hằng ngày những người sống đưa thức ăn, nước uống tiếp tế cho người đã khuất. Tranh của ông không không đánh đố người xem, cái gì ra cái đó. Bức tranh những phụ nữ ngực trần tắm bên bến nước, với bút pháp tả thực, tác phẩm là những hòa sắc tinh tế. Ông lấy chất liệu chuyển tải cảm xúc, đưa vào sáng tác của mình những điều rất đời thường, giản dị, gần gũi. ĐAU ĐÁU MỘT VÙNG ĐẤT Bên cạnh tranh mang đậm bản sắc văn hoá Tây Nguyên, ta bắt gặp nơi tranh ông một thứ ngôn ngữ hoài niệm đầy cảm xúc. Bức tranh về một Hà Nội xưa, nhìn xa như phủ một lớp bóng kính mờ của thời gian về ký ức mong manh những góc phố ngày nào trong tiềm thức, đó là những mái ngói nhấp nhô, người phố thị hàn huyên bên chén trà, quán cắt tóc... “Ngày ấy, vào Tây Nguyên, tôi nhớ Hà Nội da diết, một lần đi ra Huế, tôi mua được ít chất liệu sơn mài và về vẽ. Bức này tôi vẽ cách đây khoảng 20 năm, chưa đặt tên gì”, ông bộc bạch. Năm 1998, hoạ sĩ Ngô Tiến Sỹ từ Hà Nội vào Đắk Lắk. Ngày ấy ông chưa mường tượng ra vùng đất này. Vào đúng thời điểm mùa khô Tây Nguyên, chứng kiến cây bên đường phủ lớp bụi đất rất dày, ông muốn quay về Hà Nội. Nhưng rồi, ông quyết định gắn bó nơi đây, có nhiều thời gian đi cơ sở các buôn làng, bản sắc văn hóa bản địa lôi cuốn, bản thân cảm thấy không thể rời mảnh đất này được. Nhiều tác phẩm của ông chưa được đặt tên. Ông nói rằng, yêu Tây Nguyên và đưa tình yêu vùng đất này vào hội họa. Ý niệm được ông chắt lọc trong những lần đi về các buôn làng ở vùng sâu xa, đến thời điểm, ông bung ra. Mỗi khi sáng tác, ông lột tả cảm xúc, tìm những gam màu phù hợp để thể hiện qua chất liệu sơn mài. Trong tranh của Ngô Tiến Sỹ, màu sắc là một bản giao hòa đa dạng, gam màu vàng nhạt, xanh, đỏ đất, xuất hiện với tần suất cao, đó là tông màu ông yêu thích. Theo ông, chỉ có đam mê, cần cù mới níu giữ và tạo sự thăng hoa với nghề. Ông cho biết, để có được một bức tranh sơn mài hoàn thiện không phải chỉ nằm ở ý tưởng mà đòi hỏi sự tỉ mẩn, chịu khó của người họa sĩ. Tất cả được nuôi dưỡng bằng niềm đam mê hội họa. “Mài cũng là vẽ. Nếu bạn mài chưa tới thì không thấy được lớp ở dưới. Nếu mài quá thì sẽ bị đứt. Kỹ thuật mài cũng là vẽ. Một bức tranh trải qua 4 lớp mài, trong đó mài phá là bước đầu tiên đòi hỏi sự công phu. Mài xong đến công đoạn đánh bóng, dùng bàn tay xoa cho bóng. Có nhiều bức tôi huy động cả vợ con cùng đánh bóng bức tranh. Nói về màu sắc, ở kỹ thuật cổ truyền, nghệ thuật sơn mài bị hạn chế, bây giờ, người nghệ sĩ sơn mài thỏa sức sáng tạo”, ông chia sẻ. Hoạ sĩ Ngô Tiến Sỹ có thời gian 5 năm công tác tại Phòng Văn hóa và Thông tin huyện Cư M’gar. Sau đó, ông chuyển công tác, tham gia giảng dạy bộ môn mỹ thuật tại một trường ở huyện này. Hai năm nay, theo chương trình giáo dục phổ thông mới, hoạ sĩ Ngô Tiến Sỹ là giáo viên đầu tiên được chọn dạy thí điểm môn mỹ thuật tại một trường phổ thông trên địa bàn TP Buôn Ma Thuột. N.T sĩ Phạm Việt Long khẳng định, tình trạng này có nguyên nhân chủ quan do chính tác giả đôi khi không mạnh dạn lên án, dễ dàng bỏ qua cho những hành vi xâm phạm. “Về nguyên nhân khách quan, môi trường số khiến việc sao chép và phân phối nội dung trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết. Mọi người có thể sao chép, chia sẻ và phân phối nội dung một cách nhanh chóng và rộng rãi chỉ trong vài cú nhấp chuột. Trên Internet, thông tin về quyền sở hữu và quyền tác giả thường không được hiển thị rõ ràng. Điều này làm cho việc xác định nguồn gốc và chủ sở hữu của một tác phẩm trở nên khó khăn”, nhạc sĩ Phạm Việt Long nói. Chuyên gia nhấn mạnh, câu chuyện cân bằng giá trị tài sản (tác phẩm) của chủ thể sáng tạo với giá trị nghệ thuật của người truyền đạt. Không thể duy trì mãi tình trạng bất công, khi mà nhạc sĩ sáng tác thu tác quyền một bài hát vài triệu đồng một đêm đã khó, trong khi đó ca sĩ nhận cả trăm triệu đồng. Tính đến tháng 8/2024, số tác giả thành viên trong nước của VCPMC lên hơn 6 nghìn người. Tổng tiền bản quyền thu được năm 2023 là hơn 344 tỷ đồng (chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng). Nhạc sĩ Đinh Trung Cẩn cho biết, đơn vị này đang đặt mục tiêu trong những năm tới cố gắng để các tác giả, chủ sở hữu được hưởng tối đa quyền lợi. THU AN Tranh kích thước cỡ lớn với chủ đề về buôn làng Tây Nguyên Một số đơn vị tổ chức sự kiện âm nhạc chậm trễ trả tiền bản quyền Hoạ sĩ Ngô Tiến Sỹ hiện là giáo viên mỹ thuật tại một trường cấp 3 trên địa bàn TP Buôn Ma Thuột, là hội viên Hội Mỹ thuật Đắk Lắk, hội viên Hội Mỹ thuật Việt Nam. Ông cho biết đang ấp ủ một tác phẩm. Cách đây 3 năm, ông đi cùng Hội Mỹ thuật Việt Nam đến quân cảng Cam Ranh. Từ thời điểm đó đến nay chưa có thời gian hoàn thành tác phẩm ấy. Hiện tại, ông đã có phác thảo, trong năm tới sẽ hoàn thiện tác phẩm. Nhà văn Xuân Phượng kể năm 1991, khi bước qua tuổi 60, bà mở Lotus Gallery ở TPHCM với mong muốn phòng tranh sẽ là cầu nối đưa tranh của các hoạ sĩ trong nước ra thế giới, đưa tranh từ nước ngoài về Việt Nam. Và hành trình đó đã gặp muôn vàn khó khăn, nhiều vinh quang, thành công vang dội từ những chuyến đi song cũng không ít những nhọc nhằn, những tình huống dở khóc, dở cười. Như chuyện mang hàng trăm bức tranh cùng họa sĩ, nhân viên nhập cảnh nước ngoài, xin visa, thuê địa điểm trưng bày tranh, rồi lo khách sạn, nơi ăn chốn ở cho mọi người… sơ sểnh là có thể hỏng việc. Trong những hành trình như thế, Xuân Phượng từng bị đối tác lừa, chiếm đoạt tài sản. Bà cũng đã bị nhốt trong phòng giam sân bay, bị đối xử như tội phạm… May mắn thay, nhờ có các mối quen biết và cách làm ăn luôn ngay thẳng, bà đã vượt qua nhiều khó khăn để đưa Lotus Gallery trở thành phòng tranh có thương hiệu, uy tín với các nhà sưu tập và các họa sĩ trong, ngoài nước. Cũng trong cuốn sách, Xuân Phượng kể những câu chuyện về cái duyên của bà với các họa sĩ Việt. Là người có kinh nghiệm về mỹ thuật, bà có hàng trăm chuyến đi khắp Việt Nam để tìm kiếm những tài năng trẻ. Từ những chuyến đi, Xuân Phượng đã phát hiện nhiều họa sĩ chưa có tên tuổi và khuyến khích, động viên họ mạnh dạn tham gia thị trường tranh thế giới. Nhờ đó, nhiều hoạ sĩ trẻ đã có cơ hội phát triển nghề, được giới hội họa thế giới công nhận. Trong Khắc đi… Khắc đến, bà Xuân Phượng kể lại một cách sinh động bằng văn phong nhẹ nhàng, ấm áp nhưng cũng không kém phần hài hước. Người đọc có cảm giác như đang trực tiếp nghe bà kể chuyện. Các câu chuyện dưới góc nhìn của người trong cuộc, đầy thực tiễn và ấn tượng của một thời đất nước còn đang chập chững bước vào quá trình hội nhập. Bà Xuân Phượng chia sẻ, kể từ những bước đi đầu tiên, mang chuông đi đánh xứ người, tới nay bà có hàng trăm chuyến đi triển lãm tranh trên thế giới. Nhưng “gai nhọn bất ngờ đâm thẳng vào người, cạm bẫy ngụy trang khéo léo, đưa mình vào tròng. Đấy là những giây phút bàng hoàng, điêu đứng, lảo đảo gắng gượng khôn cùng để níu giữ cho bằng được cuộc sống của phòng tranh thân yêu, cuộc sống nửa đời sau của tôi khi bước vào tuổi hưu. Và, tôi tin là mình đã thành công”, nữ nhà văn Xuân Phượng bộc bạch. Nhà văn Bích Ngân, Chủ tịch Hội Nhà văn TPHCM nhận xét, Khắc đi…khắc đến cho chúng ta thấy rõ hơn hành trình đưa tác phẩm hội họa, văn hóa Việt đến với thế giới. Ngoài trí tuệ, tài năng và bản lĩnh của Xuân Phượng còn là những khúc quanh đầy hiểm trở, những sắc màu thật đẹp của khát vọng, yêu thương, của hạnh phúc và nỗi buồn nơi niềm đau của phận người. TRỌNG THỊNH Nữ nhà văn 95 tuổi ra sách mới Ở tuổi 95, nữ đạo diễn - nhà văn Xuân Phượng vừa cho ra mắt cuốn sách thứ ba có tên Khắc đi… Khắc đến. Đây là cuốn hồi ký của bà về những ngày đầu mở phòng tranh mang tên Lotus Gallery cách đây hơn 30 năm. Bà Xuân Phượng (giữa) nhận hoa chúc mừng từ bạn bè Bà Xuân Phượng sinh năm 1929 tại Huế, tham gia kháng chiến chống Pháp khi mới 16 tuổi. Từ một giao liên, bà trở thành nhân viên y tế và đến năm 1968 xung phong vào Nam với vai trò một phóng viên chiến trường. Xuân Phượng là một trong những nhà báo đầu tiên vào Dinh Độc Lập theo trung đoàn xe tăng trong ngày 30/4/1975. Sau này, bà trở thành đạo diễn, nổi tiếng với nhiều bộ phim tài liệu như Việt Nam và chiếc xe đạp, Tôi viết bài ca hồi sinh, Khi tiếng súng vừa tắt. Năm 2020, hồi ký Gánh gánh… Gồng gồng của bà nhận Giải thưởng Văn học của Hội Nhà văn Việt Nam và Hội Nhà văn TPHCM.

RkJQdWJsaXNoZXIy MjM5MTU3OQ==