Tiền Phong số 258

8 VĂN HÓA - GIẢI TRÍ n Thứ Bảy n Ngày 14/9/2024 MONG QUỐC PHỤC ÁO DÀI Giữa tháng 8, Bộ VHTTDL ghi danh tri thức may, mặc áo dài Huế là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Đây là bước đà để sớm hoàn thiện hồ sơ trình UNESCO ghi danh áo dài Việt Nam là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Nhiều chuyên gia nhấn mạnh, để khắc phục tính “phong trào” của công tác bảo vệ, quảng bá áo dài cần cho áo dài một “địa vị” cao hơn. Nhiều chuyên gia đề xuất áo dài cần được công nhận là quốc phục, được mặc vào những dịp quan trọng, sự kiện trọng đại của đất nước. TS. Trần Đoàn Lâm, cố vấn CLB Đình làng Việt khẳng định, việc nhận diện một dân tộc hay nền văn hóa được thực hiện thông qua nhân chủng học, ngôn ngữ, phong tục tập quán, ẩm thực, các đặc sản, các hiện vật văn hóa đặc hữu, hay nhiều yếu tố văn hóa, giá trị văn hóa khác, trong đó không thể không kể đến trang phục. Khi nhắc đến trang phục truyền thống, người ta nhận ra ngay lễ phục của Hàn Quốc là hanbok, Nhật Bản là kimono, Trung Quốc là sườn xám hay Hán phục… “Chúng ta loay hoay tìm kiếm quốc phục rồi lại bỏ qua trang phục tồn tại hàng trăm năm nay. Đó chính là áo dài truyền thống, với kiểu tay chẽn hay tay thụng”, TS. Trần Đoàn Lâm nêu. Ông phân tích, áo dài truyền thống Việt có thể trở thành quốc phục, bởi trang phục này thể hiện được nhiều đặc điểm nổi bật như: tính lịch sử, tính đặc hữu, tính đại diện trong biểu đạt, tính phổ biến, tính phổ cập. Bà Stella Ciorra, Chủ tịch Hội Những người bạn của di sản Việt Nam nhận định, việc thiếu quốc phục không chỉ là một khoảng trống trong bộ sưu tập trang phục mà còn là sự thiếu vắng một nét đặc trưng quan trọng tạo nên hình ảnh quốc gia. “Quốc phục không những gắn kết dân tộc, khơi dậy lòng tự hào khi là một phần của cộng đồng, mà còn gieo vào tâm trí người Việt tinh thần tự trọng và lòng yêu nước. Điều này tạo ra sức hút của một đất nước mà người dân tự hào và yêu nước một cách kiêu hãnh, cũng vô cùng thanh lịch trong cách ăn mặc ở cả nam và nữ”, bà Stella Ciorra nêu. TS. Lê Thị Minh Lý, Phó Chủ tịch Hội Di sản văn hóa Việt Nam bày tỏ sự mong đợi của giới nghiên cứu về việc ghi danh áo dài ngũ thân là quốc phục. “Tuy nhiên, chúng ta không cần nóng vội. Chúng ta chưa nhận được sự đồng thuận ngay khi đề xuất, vì thế tôi tin vào câu nói hữu xạ tự nhiên hương. Đến khi nhiều người mặc và áo dài ngũ thân xuất hiện ngày nhiều ở khắp nơi, tự nhiên áo dài sẽ trở thành một dấu ấn hoặc một biểu tượng nào đó”, TS. Lê Thị Minh Lý cho biết. TRÁNH LAI CĂNG, THƯƠNG MẠI HÓA TRÀN LAN Một trong những yếu tố thúc đẩy áo ngũ thân len lỏi sâu rộng trong đời sống là nhờ thương mại hóa. Hàng loạt đơn vị đã tiên phong trong việc thương mại hóa áo dài ngũ thân và cổ phục Việt, đưa những trang phục truyền thống này đến gần hơn với công chúng. Có thể kể đến Ỷ Vân Hiên, Đông Phong, V’style, Cổ trang Đại Việt quán, Hoa Niên - Những năm tháng tươi đẹp, Great Vietnam, Vạn Thiên Y… Cùng với việc nghiên cứu tư liệu lịch sử để phục dựng, các đơn vị ngày càng đầu tư để hoàn thiện kiểu dáng, chất liệu, họa tiết... của áo dài ngũ thân và cổ phục Việt. “Sự nở rộ, cạnh tranh giữa các thương hiệu đã góp phần định hình thị trường Việt phục, đưa áo dài ngũ thân cũng như trang phục áo giao lĩnh, áo viên lĩnh, đối khâm qua các thời kỳ đến gần hơn, phổ biến rộng rãi hơn với công chúng. Áo dài ngũ thân, áo tấc đã xuất hiện rộng khắp trong những bộ ảnh cưới, kỷ yếu niên khóa của học sinh…”, chuyên gia nghiên cứu Đặng Bá Minh Công nêu. Tuy nhiên, nhà nghiên cứu, phục dựng cổ phục Vũ Đức cho rằng, một số sản phẩm áo dài ngũ thân, cổ phục Việt được phân phối trên thị trường chưa đạt chất lượng, thậm chí có sự sai lệch. Bên cạnh đó, giá thành của sản phẩm lại là yếu tố then chốt để khách hàng chọn mua trang phục. “Một số cơ sở giảm giá thành sản phẩm bằng cách giảm chất lượng sản phẩm. Việc này không nên duy trì lâu dài. Tôi mong có sự thay đổi lớn như thị trường rộng mở hơn, với chất lượng dần được nâng cao hơn”, ông Vũ Đức nêu. Chuyên gia mong các cơ quan quản lý nhà nước quan tâm nhiều Áo dài là di sản văn hóa, được cộng đồng trân quý và gìn giữ. Vì vậy, công tác bảo vệ, tôn vinh, đưa áo dài trở lại với đời sống đương đại được giới chuyên gia, nhà nghiên cứu, cơ quan quản lý về văn hóa quan tâm. Bảo vệ di sản áo dài khỏi sự lai căng THỦY CHUNG Ngôi làng bình yên nằm khuất dưới chân núi Bát Úp, con người nơi đây chân chất, giản dị như đúng cái tên “Yên Lạc”. Phía sau những ngôi nhà tầng san sát, bóng người mẹ, người chị ở làng Yên Lạc vẫn miệt mài chằm tơi, cái nghề gắn bó hàng trăm năm tuổi với người dân bản địa. Những nghệ nhân xem đây không chỉ là công việc kiếm sống, mà nó là tình yêu, là đam mê với một làng nghề truyền thống. Trong ngôi nhà cấp 4, khép mình dưới tán cây cổ thụ, bà Nguyễn Thị Tuyết (63 tuổi, trú tại thôn Yên Lạc) lau vội những giọt mồ hôi lấm tấm trên khuôn mặt. Gặt xong vụ Đông đến gieo vụ Hè, hết công việc ngoài đồng, bà Tuyết mới tiếp tục công việc làm tơi. Ngồi bệt dưới hiên nhà, người phụ nữ tỉ mỉ xếp từng lá tơi vào khuôn gỗ, dùng thanh tre nẹp cho thẳng hàng rồi thoăn thoắt kéo dây luồn qua những lá nón. Bà Tuyết chia sẻ, nghề làm áo tơi, công việc đơn giản, nhưng mất nhiều thời gian. Đặc biệt là đòi hỏi sự chỉnh chu, kiên trì của người thợ. Nghề tơi không cần vốn, chỉ cần có sức khỏe, có thời gian. Để làm nên một chiếc áo tơi, nguyên liệu chính là lá nón, dây mây. Sau dịp Tết Nguyên đán, những người đàn ông làng Yên Lạc lại đùm cơm nắm, vào rừng để hái lá. Cứ cách khoảng 3 ngày, họ lên rừng một chuyến. Hết khu đồi ở Hương Khê, họ lại di chuyển đến Vũ Quang, Hương Sơn để hái lá nón. Đặc tính loài này mọc len lỏi ở rừng sâu, nên công việc hái lá cũng gặp vô vàn khó khăn. “Mùa làm tơi chính vụ từ tháng 3 đến tháng 6 Âm lịch. Có những thời điểm phải chạy xe cả trăm cây số để đi thu hái lá nón. Sáng đi, chiều tối mới di chuyển về nhà", bà Tuyết nói. Hái lá nón, phơi khô là công đoạn mất nhiều thời gian nhất. Lá khi được thu hoạch, người dân sẽ mang đốt qua lửa trước khi phơi nắng, phơi sương. Việc làm này nhằm tạo độ dai, độ bền cho lá nón. Cầm chiếc áo tơi trên tay, bà Tuyết tâm sự, để chằm hoàn chỉnh một chiếc tơi, phải mất chừng 1h -2h đồng hồ khom mình trên khung. Công đoạn khó nhất, quan trọng nhất để quyết định độ bền và mẫu đẹp mắt là phần cổ áo. Lá nón đan ở cổ áo cần đều nhau, đem xếp nhiều lớp, các đường may phải chắc chắn. Khi hoàn thiện phần cổ, các công đoạn sau trở nên nhẹ nhàng hơn. Hơn nửa đời người cặm cụi bên bàn tơi để khâu từng đường kim chằm áo, nhìn lại, bà Tuyết không thấy dư dả là bao. Nhưng cũng đỡ đần mắm muối, thóc lúa trong những lúc bĩ cực. Từ nhỏ, bà Tuyết được bố mẹ, ông bà truyền nghề, truyền luôn những câu chuyện xưa để thế hệ sau giữ nghề, không phụ cái tơi. Những năm khó khăn trăm bề, người làng Yên Lạc vẫn có đủ gạo cơm, mắm muối đắp đổi Qua sự thay đổi của thời gian, tưởng chừng chiếc áo tơi sẽ dần bị lãng quên trong cuộc sống hiện đại, nhưng ở làng Yên Lạc (xã Quang Lộc, huyện Can Lộc, Hà Tĩnh), những nghệ nhân vẫn đang cần mẫn giữ lửa nghề. Với người dân nơi đây, áo tơi không đơn thuần chỉ là chiếc áo che nắng, che mưa mà ở đó chất chứa cả đời sống tinh thần, niềm thương nỗi nhớ. Những chiếc áo tơi theo người dân ra đồng HỒN QUÊ TỪ NHỮNG LÀNG NGHỀ: Bài 8: Về nơi chằm tơi, phơi lá n HOÀI NAM PHÓNG SỰ Áo dài ngũ thân, áo tấc đã xuất hiện rộng khắp trong đời sống thông qua những bộ ảnh cưới, kỷ yếu niên khóa của học sinh Không ồn ào như làng trống, cũng chẳng nhiều sắc màu như làng dệt lụa, nhưng làng nghề chằm tơi ở xã Quang Lộc, huyện Can Lộc (Hà Tĩnh) lại mang một nét riêng. Đó là hình ảnh bình dị, thân thương gắn với người nông dân. Cũng như cái cuốc, cái xẻng, áo tơi là vật dụng gắn bó với người dân Việt từ bao đời. Mỗi một vùng quê đều có những cách chằm, may áo tơi khác nhau. Nhưng ở Hà Tĩnh, tơi được chằm dày dặn, mặc hai mùa lúa chín vẫn còn nguyên. Nhiều đơn vị ngày càng đầu tư để hoàn thiện kiểu dáng, chất liệu, họa tiết... của áo dài ngũ thân và cổ phục Việt

RkJQdWJsaXNoZXIy MjM5MTU3OQ==